Lo thì mới có động lực trả nợ
Với diện tích tự nhiên hơn 1.110 km², Krông Ana, huyện Buôn Đôn (Đắk Lắk) là xã rộng nhất tỉnh Đắk Lắk và cả Việt Nam. Dù rộng lớn, nhưng đất đai nơi này cằn cỗi, khí hậu khô nóng. Ở Krông Ana, cây lâu năm duy nhất tươi tốt là cây me ta. Người làng bảo, không ai trồng cả, tự nó lên vậy, chủ yếu để lấy bóng mát chứ chẳng ai ăn. Vì sinh kế, nhiều người trong xã chọn đi làm thuê tại Thành phố Hồ Chí Minh hoặc xuất khẩu lao động.
Vậy mà trên mảnh đất ấy, gia đình chị H’Nụ lại thoát nghèo, thậm chí khấm khá nhờ mạnh dạn thử nghiệm cách làm ăn mới. Nhận nguồn vốn vay từ Hội phụ nữ xã Krong Ana, H’Nụ quyết định đầu tư làm ao thả cá. Trong ao đủ cỡ cá, cá nhỏ thì nuôi bằng mối sẵn có quanh bờ ao, cá lớn thì có bầu, bí trong vườn bằm ra làm thức ăn. Vừa nuôi cá, gia đình chị còn mua thêm 2 con bò để lấy phân bón cho cây điều. Mẻ cá xuất dịp Tết Nguyên đán lãi đậm, vợ chồng chị quyết định mua máy cày chở nông sản, trước mắt phục vụ nhu cầu gia đình, sau nhận vận chuyển nông sản cho bà con trong làng.
Năm qua, trừ tất cả chi phí vật tư nông nghiệp, tiền công, tổng thu nhập của gia đình H’Nụ đạt trên dưới 150 triệu đồng. Hỏi “bí quyết”, chị chỉ trả lời giản dị là dám làm, làm từng bước và có tính toán. Chị bảo, vay nợ để làm ăn cũng lo lắm, nhưng lo thì mới có động lực làm để trả hết nợ. Nếu không cứ mãi luẩn quẩn quanh nhà, không thể thoát cái nghèo được.
Chị H’Bon Du, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Buôn Đôn cho biết: “Sau khi tạo cơ chế cho vay giảm nghèo, chúng tôi đặc biệt đề cao vai trò giám sát để nguồn vốn được dùng đúng mục đích. Đồng thời, Hội luôn theo sát, sẵn sàng huy động nguồn lực hỗ trợ thêm cho bà con. Mô hình kinh tế hộ như nhà chị H’Nụ tuy phát triển tốt nhưng còn rất ít, sắp tới chúng tôi sẽ cố gắng nhân rộng mô hình với những nơi có điều kiện tự nhiên tương tự”.
Đổi đời nhờ con... sâu tằm!
Bao đời nay, người Cơ Ho sống ven dòng Krông Nô thuộc huyện Đam Rông (Lâm Đồng) chỉ quen sống với lúa, ngô, khoai, sắn. Đời sống bà con ở 3 xã Đạ Tông, Đạ Long và Đạ M’Rông luôn còn đó nỗi lo thiếu thốn, chật vật, nhiều gia đình phải chạy ăn từng ngày.
Từ năm 2018, trên cơ sở nghiên cứu thổ nhưỡng, tiểu vùng khí hậu, các lãnh đạo xã đề xuất cho một số hộ dân người đồng bào dân tộc ít người đi tham quan, học tập các mô hình trồng dâu, nuôi tằm. Lúc đầu người dân có tâm lý “sợ con sâu”, ngại tham gia. Không nản lòng, xã đã phối hợp Hội Liên hiệp phụ nữ huyện và Trung tâm khuyến nông, thường xuyên tổ chức tuyên truyền, tập huấn, hội thảo đầu bờ để giúp người dân tiếp cận từng bước với sâu tằm. Sau 2 năm kiên trì, bền bỉ, qua mô hình thí điểm trên địa bàn xã, bà con đã tai nghe, mắt thấy hiệu quả kinh tế. Nhiều hộ quyết định đăng ký chuyển đổi cơ cấu cây trồng, từ cây hoa màu kém hiệu quả sang trồng dâu, nuôi tằm.
Chúng tôi đến thăm nhà chị Liêng Jrang K’Brao, một trong 25 thành viên Tổ hợp tác dâu tằm tơ Đạ M’Rông. Ngôi nhà sạch sẽ, tiện nghi với tủ lạnh, máy giặt, ti-vi thông minh đời mới, sàn nhà lát gạch hoa mát rượi. Kể về những ngày đầu tiếp cận với nghề dâu tằm, điều K’Brao nhớ nhất là cảm giác “nổi da gà” khi con tằm ngọ ngoạy trong bàn tay. Dần rồi cũng quen, điều gì chưa rõ cán bộ kỹ thuật nông nghiệp sẽ đến từng nhà cầm tay chỉ việc. Chịu khó học hỏi, rút kinh nghiệm nên sản phẩm kén của chị làm ra luôn được đánh giá cao. Chị cho biết: “Trước đây chủ yếu đi làm thuê, mỗi tháng cùng lắm cũng chỉ được 5-7 triệu đồng, nay trồng dâu nuôi tằm cho thu nhập cao hơn, lại có thời gian ở nhà chăm lo cho gia đình”.
Nói về kinh nghiệm gây dựng mô hình trồng dâu nuôi tằm, ông Nguyễn Hoàng Mạnh, Chánh Văn phòng Huyện ủy Đam Rông, nguyên Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Đạ M’Rông cho rằng, mấu chốt vấn đề là cán bộ phải bám sát cơ sở, nắm tâm tư, hiểu nguyện vọng của bà con. “Nếu giai đoạn thí điểm thất bại, bà con sẽ mất niềm tin. Vì vậy, chúng tôi hiện thực hóa quyết tâm bằng nghị quyết, đề ra nhiệm vụ cho từng giai đoạn, giao trách nhiệm cụ thể từng người, từng tổ chức đoàn thể, có đánh giá kết quả. Nhờ sự đồng thuận chủ trương hành động xuyên suốt từ trên xuống dưới, nguồn lực hỗ trợ sản xuất cho bà con được ưu tiên bổ sung kịp thời”, ông Mạnh nhìn nhận.
Từ diện tích đất nông nghiệp trồng hoa màu kém hiệu quả, chuyển sang trồng dâu, nuôi tằm thương phẩm, đời sống của nhiều bà con đồng bào đã chuyển sang một trang mới ổn định hơn, hạnh phúc hơn.
Theo bà Ma Rương, Chủ tịch Hợp tác xã trồng dâu nuôi tằm Đạ M’Rông, hiện nay trang phục từ chất liệu tơ tằm được người tiêu dùng ưa chuộng, giá đầu ra ổn định từ 180 đến 200 nghìn đồng/kg kén. Bà con đã chủ động được nguồn tằm con thay vì nhập từ các địa phương lân cận, do đó chi phí đầu vào giảm đáng kể.