Ai ở lại, ai đi xa, thì sau những cuộc sáp nhập, điều còn lại là cách người ta giữ quê trong lòng mình, và cách chính quyền trả lời mỗi khi người dân tìm tới.
Từ mảnh đất Tây Nam
Thượng úy Lê Tuấn Khanh sinh ra ở một xã nhỏ của Sóc Trăng, vùng đất có ba ngôn ngữ, ba sắc dân, ba kiểu lễ hội. Người xứ ấy không hay nói về gốc gác, nhưng ai cũng nhớ đường về chùa, nhớ tiếng trống hội ghe ngo dội trên sông, nhớ cái vị bún nước lèo cay ngang cổ.
Từ 1/7/2025, Sóc Trăng không còn trên bản đồ hành chính. Hậu Giang cũng vậy. Mọi thứ được gộp chung về thành phố Cần Thơ, rộng hơn, gần hơn với trung tâm vùng châu thổ Mê Kông, với tổng số hơn 3 triệu dân. Khanh chuyển lên Cần Thơ công tác ở Phòng Công tác chính trị, Công an thành phố. Khoảng cách từ nhà lên cơ quan hơn chín mươi cây số, không quá xa, nhưng đủ để mỗi lần đi về phải thu xếp nhiều bề.
Khanh bảo, điều làm mình ngậm ngùi là cái tên Sóc Trăng dần trở thành ký ức, còn công việc vẫn chạy, thậm chí nhanh hơn, như một con sóng lớn. “Tụi tôi chiến sĩ mà, không bao giờ được phép ngập ngừng. Sáp nhập là cơ hội để rèn mình, bản lĩnh hơn, giỏi việc hơn, vậy thôi”. Sáng Cần Thơ, chiều Sóc Trăng hay Vị Thanh, con đường ấy dần thành thói quen của nhiều cán bộ chiến sĩ công an của thành phố Cần Thơ mới. Lê Tuấn Khanh cũng bớt bối rối với đồng đội mới, bớt lạ lẫm với công việc ở một nơi không phải quê nhà. Nhưng vẫn có lúc, ở đâu đó giữa phố xá, chợt nghe giọng Khmer lẫn trong tiếng rao, nghe mùi bánh pía thoảng trong tiệm nhỏ, tự dưng biết quê nhà còn bám chặt trong người mình, dù tên gọi đã đổi thay. Anh nói, quê giờ không phải là một địa danh. Nó nằm trong giọng mẹ gọi điện buổi sớm, trong câu hỏi của cha cộc mà ấm: “Chừng nào về tới để biết chờ cơm?”, trong cả thói quen tự dưng tỉnh dậy lúc trời còn tối, nghe tiếng cá quẫy dưới chân cầu ván.
Sóc Trăng có thể sẽ thành một cái tên cũ. Nhưng có lẽ, cái cũ đó vẫn sẽ neo lại ở đâu đó trong lòng những đứa con ruột thịt như Tuấn Khanh, như cái lưng áo đẫm mồ hôi dưới nắng ruộng ngày trước. Không ai đánh rơi được quê mình, trừ khi người ta cố tình quên. Tuấn Khanh chưa quên. Và không định quên…
Đến bầu trời Việt Bắc
Bầu trời ở Vô Tranh cũng xanh như bầu trời ở bất cứ miền đất nào khác. Nhưng người ở đây vẫn nhìn bầu trời ấy như thể nó sinh ra để dành riêng cho mình, để chứng thực rằng từ đất lên trời, có một dải nối mỏng manh giữa thân phận và Tổ quốc.
Vô Tranh, cái tên nghe an nhiên không giành giật, nhưng lại ghi nhận sự kiên gan lặng lẽ. Bốn xã Cổ Lũng, Tức Tranh, Phú Đô, Vô Tranh giờ gom lại dưới một bầu trời Vô Tranh mới của tỉnh Thái Nguyên, không chỉ là cái tên gộp trên giấy, mà kỳ thực là gộp cả huyết quản, nếp nghĩ, gộp cả cái lẽ “không bỏ nhau giữa đường”. Bà Lưu Thị Xuân, sắp bước sang tuổi 80, như một người giữ hồn làng. Thời chống Mỹ, cứu nước, phía trước nhà bà là bệnh viện dã chiến. Bà từng hỗ trợ y tá chăm sóc những người lính trẻ nằm thoi thóp, nghe tiếng máy bay trên nóc nhà. Chiến tranh biên giới, bà bế từng đứa con nhỏ chạy vào hầm tăng-xê trú ẩn. Sau chiến tranh, đất hồi sinh kỳ diệu, hố bom thành nương chè xanh thẳng tắp. Không phải ai cũng có may mắn thấy đất quê mình hồi sinh như thế.
Vô Tranh cũng chứng kiến những cuộc đổi thay sáp nhập. Năm 1997, tỉnh Bắc Thái chia đôi, ba trong sáu đứa con bà Xuân rời Vô Tranh lên Bắc Kạn, góp sức kiến thiết một thị xã nhỏ bé dần trở thành thành phố. Giờ, năm 2025, cuộc tái thiết sáp nhập hai tỉnh thành một Thái Nguyên mới. Địa giới đổi, mô hình hành chính đổi. Các con bà lại lại tiếp tục đến đơn vị công tác mới xa gia đình gần 100 cây số, bắt đầu cho một cuộc đổi thay, vì một cái chung lớn lao hơn. Con gái của bà Xuân, chị Dương Thị Tịnh, Chủ tịch Hội Phụ nữ xã, là một trong những cán bộ lớn lên từ làng, đi học để trở về phục vụ quê nhà. Chị bảo: “Sáp nhập rồi, xã mới rộng gấp bốn, dân cũng đông gấp nhiều lần, việc nhiều hơn, nhưng lòng dân hồ hởi thì mình gắng sức. Làm cho quê mình thì đâu ai nề hà”.
Ở Vô Tranh, những người như chị Tịnh, hay hơn ba chục nghìn người dân khác, ít nói về khát vọng, họ để nó mọc lên trong đất, lẫn trong từng nhát cuốc, từng vết chai. Họ không tự hào về những con số trong báo cáo, mà tự hào vì điệu múa cổ tắc xình vẫn còn, hát sấng cọ được lưu truyền, lễ cầu mùa vẫn có người về góp giọng. Chè hái theo mùa, nhà dựng theo dáng cũ, bản sắc văn hóa gói trong từng nếp sống, từng mùa lễ hội. Những chuyến hàng xuất khẩu, những sản phẩm OCOP chỉ là lớp áo ngoài, còn chè Vô Tranh tự thân đã là một giọng nói, nói hộ đất, nói hộ người. Vị chè chát đầu lưỡi, ngọt hậu trong cổ, như một cách ký gửi thân phận: cay đắng trước, bình an sau.

Chị Tịnh kể, dù mới tái lập, nhưng chính quyền xã Vô Tranh đã đủ hiểu lòng dân. Họ xác định phát triển từ gốc, không bê nguyên phố về làng, không lấy đô thị làm mẫu, mà để làng vươn lớn từ cội rễ ban đầu. Những cán bộ sinh ra ở đây, đi học rồi quay lại, bám đất mà làm. Người Vô Tranh làm nông thôn mới thông minh không để khoe ứng dụng nọ, thiết bị kia, mà để người trẻ không bỏ làng ra phố, người già bớt thiệt thòi, đất thì vẫn trồng lúa trồng chè tăng vụ. Kế hoạch 2025-2030 có đầy đủ con số: thu nhập bình quân 70 triệu đồng, 60% xóm đạt kiểu mẫu. Nhưng đằng sau những con số ấy là một mệnh lệnh thầm lặng: giữ người làng ở lại với làng.
Chẳng ai đếm nổi những chuyển động âm thầm ở Vô Tranh. Người đi rồi lại về, như thể có sợi dây nào đó buộc dưới gót chân, không cắt được. Địa giới có thể giãn nở, tên làng có thể thêm bớt, nhưng những gì chảy trong lòng người thì không. Bà Xuân dặn con cháu: “Quê hương không phải cái tên, mà như máu trong người mình thôi. Máu ấy liền với đất, đất ấy liền với trời. Thay tên, dời cột mốc cũng chẳng thay được”.
Cùng trời cuối đất... vẫn là quê hương
Ở đâu đó trên bản đồ, có những cái tên đã bị gạch đi. Những đường viền hành chính được vẽ lại, thẳng hơn, gọn hơn, nhưng cũng để lại đâu đó những khoảng trống trong lòng người. Câu chuyện của chiến sĩ trẻ ở tận cùng đất Tây Nam, hay chuyện bà già giữ hồn làng Vô Tranh miền Việt Bắc, cách nhau cả nghìn cây số, nhưng cùng mang chung một nỗi niềm khi bản đồ hành chính đổi thay. Với Lê Tuấn Khanh là ký ức tỉnh nhà không còn tên gọi, với bà Lưu Thị Xuân là cách gìn giữ gốc gác quê hương qua những bản sắc chảy truyền. Giữa những đổi thay ấy, mỗi người tự giữ cho mình một miền nhớ riêng. Nhưng không chỉ họ, khắp đất nước này, từ bắc tới nam, ai ai cũng đang phải học cách đi tiếp trong một dáng hình đất nước đang thay đổi từng ngày. Không chỉ là tên tỉnh, tên xã mới, mà là cách sống mới, cách chính quyền phải hiện ra trước dân theo một cách khác: dễ hơn, nhanh hơn, bớt cửa, bớt chờ.
Từ Thái Nguyên đến Sóc Trăng, tới Quảng Trị, Đồng Nai, Đắk Lắk, cả nước đã và đang đi qua một cuộc tái thiết bộ máy lớn nhất trong nhiều thập kỷ: chính quyền hai cấp. 34 tỉnh thành mới, giảm hơn 6.700 xã, phường, thị trấn. Đất nước đang dọn dẹp những chồng chéo cũ để đi nhanh hơn, thẳng hơn. Nhưng nếu không đổi cách phục vụ dân thì cuộc sáp nhập đã không còn ý nghĩa. Đó là lý do chuyển đổi số đã đến tận từng ngôi làng, từng người dân. Nó là việc mà người dân ở Quảng Trị có thể nộp hồ sơ ngay từ làng, không phải đi xa. Ở Đà Nẵng, Lai Châu, camera giao thông, QR giải đáp thủ tục hoạt động suốt ngày đêm. Đồng Nai đạt 95% thủ tục hành chính online. Đắk Lắk có 4 nền tảng điện tử, miễn phí chữ ký số, từ căn cước đến ý kiến người dân đều qua mạng.
Mỗi tỉnh, mỗi thành phố có cách riêng nhưng đều chung mục tiêu: chính quyền là nơi phục vụ. Người dân ở tỉnh mới, làng cũ, dù tên gọi có đổi, đều hưởng cùng một mặt bằng dịch vụ, không phân biệt ai ở đâu. Bản đồ hành chính có thể đã được vẽ lại, nhưng bầu trời thì vẫn thế. Không ai bị bỏ lại, không ai phải chạy, bởi quê hương bây giờ không chỉ là nơi chôn nhau cắt rốn, mà là nơi người ta được phục vụ tử tế, được gọi đúng tên, được chính quyền lắng nghe, trong từng cú click.
*
Sáp nhập, rồi có những cái tên hành chính sẽ dần thành kỷ niệm, nhưng đi đến cùng trời vẫn là trời Việt, đi đến cuối đất vẫn là đất Việt. Quê hương còn lại trong cách người ta sống, cách giữ nếp bản sắc, và cả trong cách chính quyền phục vụ nhân dân tốt hơn mỗi ngày. Giữ được những điều ấy, thì quê hương vẫn còn, dù gọi bằng cái tên nào trên bản đồ đi nữa.