1Trước đây, do hoàn cảnh chiến tranh, Đảng không thể tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc một cách thường kỳ; sau khi đất nước thống nhất, kể từ Đại hội IV (năm 1976) đến nay, cứ 5 năm, Đảng ta tổ chức Đại hội một lần.
Đại hội IV của Đảng (năm 1976) đã tổng kết và khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX; chỉ ra ba đặc điểm lớn của cách mạng Việt Nam; xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới là: Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng về khoa học-kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sau Đại hội V, Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước; quyết định xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chuyển sang hạch toán kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường; bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, bố trí lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý; đổi mới cơ cấu kinh tế giữa các ngành, thực hiện bằng được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu…
Tiếp đó, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chỉ ra sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng; nêu ra bảy phương hướng lớn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VIII (năm 1996), rồi tới Đại hội IX của Đảng (năm 2001) xác định mục tiêu chung của cách mạng nước ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đại hội khẳng định, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ; đánh giá sâu sắc, đầy đủ và toàn diện hơn về vị trí, vai trò và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh; làm sáng tỏ hơn quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội X của Đảng (năm 2006) tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn của 20 năm đổi mới; bổ sung hai đặc trưng mới của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng so Cương lĩnh 1991 thành tám đặc trưng và tám phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội X xác định nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Quan điểm nổi bật của Đại hội là đã cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân, kể cả tư bản tư nhân, nhưng yêu cầu phải tuân thủ Điều lệ Đảng, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên.
Đại hội XI của Đảng (năm 2011) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội (2011-2020). Cương lĩnh xác định mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI là xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 xác định ba đột phá chiến lược: một là, Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hai là, Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ba là, Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đã tổng kết 30 năm đổi mới và nêu mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2021. Đại hội rút ra năm kinh nghiệm; nhấn mạnh đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh và bền vững, đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả sáu nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII gắn với việc đánh giá 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020; xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng) và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước); phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2Với tinh thần cầu thị, đổi mới để tiến lên; với ý chí và khát vọng của một Đảng cầm quyền chân chính lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Các kỳ Đại hội Đảng đã hoạch định chủ trương, đường lối, chiến lược để đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, bứt phá đi lên. Mỗi một kỳ Đại hội Đảng là một bước phát triển, bước chuyển biến về nhận thức, về thực lực của đất nước trên tất cả các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, thể hiện bằng những con số cụ thể và trong một văn bản chính trị cao nhất; được lấy ý kiến, thảo luận và quyết định ở cơ quan lãnh đạo cao nhất trong toàn Đảng. Đây cũng là quá trình tổng kết sâu sắc và toàn diện quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách trên tất cả phương diện chủ yếu. Do vậy, có tính lý luận rất cao, được đúc rút thành những bài học, kinh nghiệm quý báu.
Đất nước đang đứng trước ngưỡng cửa kỷ nguyên vươn mình, với rất nhiều thuận lợi, cơ hội đan xen với không ít nguy cơ, khó khăn, thách thức, đòi hỏi Đảng phải đủ tầm năng lực, trí tuệ, bản lĩnh đưa đất nước thực hiện thắng lợi hai mục tiêu 100 năm, phấn đấn đến giữa thế kỷ XXI Việt Nam sẽ trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đây là một mục tiêu đầy tham vọng, là thách thức rất lớn đối với dân tộc Việt Nam trong cuộc cạnh tranh toàn cầu.
Đại hội XIV đang đến gần, với rất nhiều kỳ vọng. Đại hội sẽ đề ra phương hướng, nhiệm vụ, quyết sách chiến lược của đất nước trong 5 năm tới và các năm tiếp theo; bầu ra đội ngũ lãnh đạo mới để chèo lái con thuyền đất nước tiếp tục tiến lên. Đây là một giai đoạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Trọng trách đặt lên vai Đảng cầm quyền và đội ngũ lãnh đạo đất nước. Với truyền thống 95 năm ra đời và phát triển, với sự ủng hộ và đoàn kết của toàn dân, chúng ta tin tưởng sâu sắc rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta sẽ có sự bứt phá mạnh mẽ trong thời gian sắp tới, hiện thực hóa khát vọng về một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đóng góp xứng đáng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, như ước muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời ■
Cho đến nay, Đảng ta đã tổ chức được 13 kỳ Đại hội. Mỗi Đại hội đều có vị trí, vai trò, tầm quan trọng riêng, đều khẳng định thế và lực của Đảng và đất nước. Từ sau khi đất nước thống nhất, Đảng đã tổ chức được 10 kỳ Đại hội Đảng, trong đó có những kỳ Đại hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển của đất nước, khẳng định vị thế của dân tộc.