Dù đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ các em phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, song công tác này vẫn tồn tại nhiều bất cập. Từ bữa ăn thiếu chất, phòng y tế thiếu người, cho đến khoảng trống về tâm lý và sức khỏe sinh sản...
Cần coi sức khỏe học sinh là đối tượng phục vụ đặc biệt và coi trọng chăm sóc sức khỏe tinh thần ngang với sức khỏe thể chất”.
Thủ tướng Phạm Minh Chính
Bối cảnh mới - yêu cầu mới
Trong nhiều văn kiện quan trọng, Đảng và Nhà nước đều nhấn mạnh: “Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi người dân, là nhân tố hàng đầu của nguồn nhân lực quốc gia”. Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, đã đặt mục tiêu phát triển con người toàn diện cả về thể lực, trí lực, tinh thần và tầm vóc. Nghĩa là, giáo dục không thể chỉ dừng ở trang sách, mà phải gắn liền với thể trạng và sức khỏe tinh thần của thế hệ công dân mới.
Kinh nghiệm quốc tế càng củng cố điều này. Ở Nhật Bản, bữa ăn học đường được luật hóa và triển khai đồng bộ từ tiểu học đến trung học. Hàn Quốc, Singapore gắn y tế học đường với y tế cộng đồng, xây dựng hồ sơ sức khỏe điện tử liên thông với bệnh viện. Những quốc gia ấy coi chăm lo sức khỏe học sinh là “tuyến phòng thủ đầu tiên” để bảo vệ thế hệ tương lai, từ đó tạo nền tảng vững chắc cho nguồn nhân lực quốc gia.
Tại Việt Nam, khung pháp lý cũng đã hình thành khá sớm. Chỉ thị số 23/2006/CT-TTg yêu cầu tăng cường y tế trường học; Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm (2007) và Luật Giáo dục (2019) đều có những điều khoản liên quan. Thông tư liên tịch số 13/2016/TTLT-BYT-BGDĐT đặt ra khung tổ chức y tế trường học, phòng chống bệnh tật. Gần đây, Chính phủ cũng phê duyệt nhiều chương trình lớn như: Quyết định số 1660/QĐ-TTg (2021) về Chương trình Sức khỏe học đường 2021-2025, Quyết định số 85/QĐ-TTg (2022) gắn y tế trường học với y tế cơ sở, và Quyết định số 2616/QĐ-BYT (2024) kéo dài Chương trình Sức khỏe học đường đến năm 2026.
Như vậy, hệ thống chính sách liên quan đến chăm sóc sức khỏe học đường tương đối đầy đủ. Vấn đề là, khoảng cách từ văn bản đến thực thi, từ mục tiêu đến hành động vẫn chưa được rút ngắn lại. Và điều này để lại những hệ lụy đáng tiếc cho nhiều thế hệ học sinh.
Khoảng trống hiện hữu trong y tế học đường
Năm học này, thành phố Hà Nội bắt đầu triển khai chính sách hỗ trợ bữa trưa bán trú cho học sinh tiểu học. Nhiều phụ huynh kỳ vọng con mình có được những suất cơm cân đối dinh dưỡng, với đủ thịt, cá, rau, sữa. Đây sẽ là một bước tiến nhằm bảo đảm sức khỏe cho thế hệ tương lai.
Tuy vậy, dinh dưỡng - nền tảng an sinh tối thiểu - chưa được bảo đảm đồng đều. Ngay tại các đô thị lớn, bữa ăn bán trú ở nhiều trường vẫn thiếu cân đối. Còn ở các điểm trường vùng cao, bữa trưa của nhiều em nhỏ vẫn chỉ có cơm chan nước mì gói. Thầy, cô phải tự trồng thêm rau, xin thêm gạo, vận động chính quyền và phụ huynh đóng góp để có thêm miếng thịt, quả trứng cho học trò. Với họ, lo được bữa ăn đủ no thôi cũng là cách để giữ chân học trò ở lại lớp học.
Trẻ em đang đối mặt đồng thời với hai thái cực: Suy dinh dưỡng ở nông thôn và béo phì ở thành phố. Nỗi lo càng dày thêm khi mỗi năm đều xuất hiện những vụ ngộ độc thực phẩm trường học.
Nếu bữa ăn là nền tảng, thì nhân lực y tế học đường chính là “xương sống” trong chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ. Nhưng hàng nghìn trường học vẫn đang bị trống vị trí nhân viên y tế. Phường Minh Phụng, phường Bình Thới, phường Hòa Bình, phường Phú Thọ thời điểm trước sáp nhập thuộc Quận 11 (Thành phố Hồ Chí Minh) từng có gần 80% trường có cán bộ y tế, nay giảm xuống chưa tới một nửa. Tại các xã miền núi ở Nghệ An, nhiều trường mầm non và tiểu học không có cán bộ y tế phải ký hợp đồng với trạm y tế xã hoặc giao cho thủ quỹ, bí thư chi đoàn kiêm nhiệm. Với mức lương 4 triệu-5 triệu đồng/tháng, nhân viên y tế trường học cũng rất khó để gắn bó lâu dài với công việc. Không ít phòng y tế trong trường chỉ còn vài vỉ thuốc cảm, vài cuộn băng gạc, thiếu cả bình oxy, cáng cứu thương.
Nhưng y tế học đường không chỉ dừng ở sơ cứu và tiêm chủng. Ngay giữa Hà Nội, tại Trường THCS Chương Dương, phòng tham vấn nhỏ bé với vài chiếc ghế nhựa lại trở thành điểm tựa cho hàng trăm học sinh mỗi năm. Có em lặng lẽ hàng tuần, chỉ bật khóc khi được gợi chuyện: “Con sợ làm bố mẹ thất vọng”. Có em sống thiếu cha mẹ, ngày nào cũng ghé phòng cô Hiệu trưởng vài phút để được chia sẻ, động viên. Khảo sát đầu năm học cho thấy, gần 300/1.000 học sinh cần hỗ trợ tâm lý, nhưng trường vẫn chưa có biên chế chuyên trách. Thạc sĩ Tâm lý học đường Vũ Thị Thanh Hà (Học viện Phụ nữ) từng chia sẻ: “Có những ca xâm hại tình dục ngay trong gia đình - giữa bố và con, giữa anh chị em ruột - được phát hiện ở chính các trường học tại Hà Nội. Nỗi đau này không dễ đưa ra ánh sáng”. Những câu chuyện ấy cho thấy: Chăm sóc tinh thần và bảo vệ an toàn trẻ em không thể chỉ là việc “làm thêm” trong các nhà trường.
Ở một số địa phương, nhà trường phải đối diện với một thực tế nhói lòng: Học sinh mang thai khi còn ngồi trên ghế nhà trường, thậm chí có em còn chưa học hết trung học cơ sở. Những trường hợp như vậy không cá biệt. Điểm chung là sự thiếu hụt nghiêm trọng về giáo dục giới tính và dịch vụ y tế học đường. Rõ ràng, một khi thiếu vắng người thầy thuốc trong trường học, cam kết về “giáo dục toàn diện” trở nên khập khiễng.
Cần khung pháp lý đủ mạnh
Những khó khăn của y tế học đường không chỉ đến từ cơ sở vật chất thiếu thốn, mà còn từ cơ chế quản lý còn chồng chéo. Bộ Giáo dục và Đào tạo phụ trách nhân sự trong nhà trường, Bộ Y tế đảm trách chuyên môn, nhưng khi sự cố xảy ra, trách nhiệm đôi khi chưa được phân định rạch ròi. Ngân sách dành riêng cho y tế học đường hiện cũng chưa có mục cụ thể, nên dễ bị gộp chung và cắt giảm.
Điều đó cho thấy, để y tế học đường thật sự vận hành hiệu quả, chúng ta cần một cách tiếp cận rõ ràng và mạnh mẽ hơn. Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn từng khẳng định: “Đây là một chương trình tổng thể với sự tham gia của cả hệ thống chính trị”. Quyết tâm chính trị đã có, vấn đề còn lại là làm sao có được những cơ chế khả thi để biến quyết tâm thành hành động.
Muốn vậy, nguồn lực tài chính phải được thiết kế bền vững ngay từ đầu. Theo GS,TS Trần Thanh Dương (Viện trưởng Dinh dưỡng Quốc gia, Bộ Y tế), cần hình thành khoản ngân sách riêng, ổn định để tiến tới luật hóa bữa ăn học đường và triển khai đồng bộ hồ sơ sức khỏe điện tử, bảo đảm công bằng cho mọi trẻ em.
Song song với nguồn lực tài chính, yếu tố con người và những tiêu chí, quy định về dinh dưỡng phải trở thành điểm đột phá. Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Tri Thức nhấn mạnh, trường học chính là “mặt trận then chốt” bởi lứa tuổi 2-12 là giai đoạn vàng để can thiệp dinh dưỡng và vận động, tạo tác động trọn đời. Ông khẳng định: “Đầu tư cho dinh dưỡng là đầu tư cho phát triển; đã đến lúc cần một khung pháp lý đủ mạnh để nâng tầm vóc và thể lực thế hệ trẻ”.
Cùng với đó, chăm sóc tâm lý và sức khỏe sinh sản cần được lồng ghép tự nhiên trong trường học, với phòng tư vấn chuyên trách, giáo dục giới tính chính khóa và dịch vụ y tế bảo mật. Điểm chính yếu, để hệ thống vận hành hiệu quả, cần xây dựng được cơ chế phối hợp liên ngành minh bạch: Bộ Y tế giữ vai trò chuyên môn, Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai, cùng chia sẻ nguồn lực và giám sát. Khi trách nhiệm rõ ràng, y tế học đường mới thoát khỏi “vùng xám” để trở thành trụ đỡ tin cậy cho giáo dục.
Nhìn nhận đúng, để không lãng phí tiềm năng
Vai trò của phòng y tế học đường hiện chưa được nhìn nhận một cách thật sự đúng đắn. Nhân viên y tế học đường đang phải kiêm nhiệm nhiều công việc hơn so vị trí việc làm, dẫn tới việc chưa thể quan tâm, đầu tư đúng mức đến công việc chính của mình.
Đầu tư cho y tế học đường như thế nào, với mức độ ra sao sẽ được quyết định bởi ban lãnh đạo của mỗi trường. Hiện nay, phần lớn các hoạt động đều được thực hiện theo mô hình: y tế phường có chương trình gì, trường làm theo chương trình đó, thiếu tính chủ động trong tổ chức các hoạt động y tế chuyên biệt cho học đường. Trong khi đó, vai trò tuyên truyền y tế, phòng ngừa các vấn đề sức khỏe học sinh của y tế học đường lại đang bị bỏ trống. Thí dụ, với học sinh trung học cơ sở, khi các bạn đến tuổi dậy thì là “thời điểm vàng” để phát triển tầm vóc, nhưng vai trò của nhân viên y tế học đường lại khá mờ nhạt. Hay khi đến mùa thi, chế độ dinh dưỡng, ăn uống ngủ nghỉ của học sinh ra sao để có thể lực tốt nhất cũng chưa được quan tâm đúng mức. Nếu nhân viên y tế học đường thực hiện đúng và đủ các vai trò của họ, sẽ không có thời gian và sức lực kiêm thêm các nhiệm vụ khác.
Thạc sĩ, nhà giáo Nguyễn Hoàng Chiêu Anh