Tài sản bảo đảm có thể chỉ còn là hình thức

Theo các chuyên gia, nếu ngân hàng bị cấm thu giữ ngôi nhà duy nhất của khách hàng hoặc phương tiện lao động duy nhất, thì coi như tài sản bảo đảm chỉ là hình thức, mâu thuẫn với hợp đồng thế chấp. Cần có ranh giới rõ ràng để tránh bị lợi dụng.

Nhóm khách hàng dùng tài sản thế chấp bị thu hẹp khả năng tiếp cận nguồn vốn chính thức. Ảnh: NAM ANH
Nhóm khách hàng dùng tài sản thế chấp bị thu hẹp khả năng tiếp cận nguồn vốn chính thức. Ảnh: NAM ANH

Dự thảo lần đầu của Nghị định "Quy định điều kiện tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu được thu giữ" của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định, ngân hàng chỉ được thu giữ tài sản bảo đảm nếu đó không phải là ngôi nhà duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu của người vay. Theo NHNN, đây là biện pháp bảo vệ tối thiểu điều kiện sinh sống và làm việc, tránh để họ rơi vào cảnh mất chỗ ở hay mất nguồn mưu sinh.

Vẫn còn nhiều mâu thuẫn

Ngay khi công bố, dự thảo Nghị định đã lập tức thu hút sự chú ý của dư luận và giới chuyên gia. Nhiều ý kiến nhận định quy định này thể hiện tính nhân văn, củng cố niềm tin và tạo sự an tâm cho những người đang tìm kiếm cơ hội sở hữu căn nhà đầu tiên. Tuy nhiên, phần lớn ý kiến lại lo ngại quy định sẽ vô tình gây khó khăn cho những người chỉ có duy nhất một tài sản, khi họ muốn dùng chính tài sản đó để vay vốn.

Bởi lẽ, do yêu cầu kiểm soát rủi ro, các ngân hàng có thể siết chặt cho vay hoặc từ chối những khoản thế chấp bằng nhà ở duy nhất. Hệ quả là nhóm đối tượng này bị thu hẹp khả năng tiếp cận nguồn vốn chính thức, buộc họ tìm đến tín dụng phi chính thức hoặc phải chịu áp lực tài chính nặng nề hơn.

Bên cạnh đó, PGS, TS Nguyễn Hữu Huân, chuyên gia kinh tế nhận định, cho vay có tài sản bảo đảm nhưng lại không được thu giữ khi xảy ra nợ xấu thì khái niệm “tài sản bảo đảm” sẽ mất ý nghĩa. Chưa kể tình huống người vay cố tình gây khó khăn cho quá trình xử lý nợ. Điều này sẽ tác động không nhỏ tới thị trường tín dụng, nơi phần đông người dân vẫn đi thuê nhà, chỉ một số ít sở hữu căn nhà đầu tiên hoặc chiếc ô-tô đầu tiên.

Nhiều khoản vay hiện nay cũng dựa trên các tài sản hình thành trong tương lai như căn hộ đang xây dựng để tạo đòn bẩy tài chính. Việc hạn chế khả năng xử lý tài sản bảo đảm sẽ thu hẹp cơ hội tiếp cận vốn chính thức, gây cản trở mục tiêu “tài chính toàn diện” mà Việt Nam đang theo đuổi.

“Người dân cần được quyền tận dụng tài sản sẵn có để tạo ra đòn bẩy thu nhập, nhưng khi vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì cũng phải chịu trách nhiệm theo luật”, ông Huân nhấn mạnh.

Đồng quan điểm, TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, nếu ngân hàng không được phép thu giữ nhà, hoặc công cụ lao động của khách hàng thì tài sản đảm bảo coi như bị vô hiệu hóa, chỉ mang tính chất hình thức. Người vay đã dùng căn nhà để thế chấp, nhưng khi không thanh toán nợ đúng hạn, ngân hàng lại không thể xử lý sẽ gây mâu thuẫn với hợp đồng thế chấp.

Cũng theo ông Hiếu, ngân hàng ở Mỹ có quyền thu hồi tài sản đảm bảo, ngay cả với ngôi nhà chính qua tòa án hoặc dựa trên hợp đồng thế chấp. Trong trường hợp khách hàng nhận thấy quyền lợi bị ảnh hưởng, họ có thể tiến hành khởi kiện, trong thời gian xét xử, ngân hàng mới không được phép thu giữ.

Như vậy, người đi vay phải hiểu rõ được rủi ro có thể bị tịch thu tài sản nếu không trả nợ trước khi quyết định dùng căn nhà, hay công cụ lao động “duy nhất” của mình để thế chấp. Nếu luật mặc định căn nhà chính không bị thu giữ, thì ngay từ đầu nó không phải là tài sản bảo đảm nữa.

Bổ sung thêm ý kiến, luật sư Thu Hà (Đoàn Luật sư Hà Nội) cho biết, ngay cả khi các ngân hàng được thực hiện thu giữ tài sản như hiện nay, thì khi xảy ra tranh chấp, sẽ có đến hơn 90% bên có tài sản bảo đảm sẽ thoái thác toàn bộ. Vì vậy, quy định như dự thảo có thể sẽ tạo nên một cái cớ nữa cho người vay tham gia tranh chấp. Ngoài ra, chính bên “được bảo vệ” cũng sẽ gặp rủi ro vì “chẳng ngân hàng nào nhận” nếu không được xử lý tài sản bảo đảm.

Hài hòa giữa chỗ ở tối thiểu và nghĩa vụ trả nợ

Nêu quan điểm về vấn đề này, ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam nhận định, quy định này có ý nghĩa nhân văn nhưng dễ tạo ra bất cập. Thực tế có người chỉ sở hữu một căn hộ vài chục mét vuông, song cũng có trường hợp nhà duy nhất trị giá hàng trăm tỷ đồng, nếu mặc định không được xử lý thì sẽ gây mất công bằng.

Cũng theo ông Hùng, ngay cả các tổ chức tín dụng cũng đang hết sức băn khoăn. Họ đồng tình với yếu tố nhân văn trong dự thảo, nhưng nếu phạm vi bảo vệ quá rộng sẽ nảy sinh bất cập: Những người sở hữu tài sản lớn vẫn được miễn trừ thu giữ, trong khi các khoản vay nhỏ, người vay khó khăn lại phải gánh trách nhiệm trả nợ nghiêm ngặt. Điều này có thể tạo ra sự bất công và làm méo mó nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ tín dụng.

Vì vậy, ông Hùng cho rằng, giải pháp hợp lý là phải dung hòa giữa quyền có chỗ ở tối thiểu và nghĩa vụ trả nợ. Nhà nước có thể bảo đảm một chỗ ở cơ bản cho người dân trong diện khó khăn, phần giá trị tài sản còn lại mới được dùng để thanh toán nợ. Điều quan trọng là cần xác định rõ ranh giới đâu là tài sản được bảo vệ, đâu là phần phải xử lý, để bảo đảm quyền lợi cho cả người vay và tổ chức cho vay.

Ở góc nhìn của “bên liên quan”, anh Trần Nam, chủ một đại lý kinh doanh xe ô-tô đã qua sử dụng tại Hà Nội nhận xét, dự thảo quy định mới của NHNN là nhân văn nhưng cần có sự phân loại rõ ràng, dựa trên quá trình trả nợ và mục đích vay vốn. Anh Nam cho biết, tại đại lý của mình, có những khách hàng thật sự vay để mua xe chạy dịch vụ mưu sinh. Nhưng cũng không ít người lợi dụng khoản vay cho mục đích khác.

Thực tế còn xuất hiện tình trạng khách vay xong thì chây ỳ, thậm chí bán hoặc mang xe đi cầm cố, khiến ngân hàng gần như mất khả năng thu hồi nợ. Nghiêm trọng hơn, có khách còn tháo cả thiết bị định vị mà ngân hàng lắp đặt để giám sát. Với những tài sản có tính di động như xe ô-tô, rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt là rất lớn nếu thiếu cơ chế quản lý và xử lý nợ chặt chẽ.

Tiếp nối những ý kiến về sự cần thiết của khung pháp lý rõ ràng, tại một tọa đàm gần đây về việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm, bà Nguyễn Thị Phương, Giám đốc Ban Pháp chế Ngân hàng BIDV dẫn chứng rằng, trong suốt sáu năm áp dụng Nghị quyết 42, toàn hệ thống BIDV mới chỉ xử lý 85 hồ sơ thu giữ tài sản bảo đảm. Trong đó chỉ tám hồ sơ được áp dụng tố tụng rút gọn và mới ba trường hợp được xử lý dứt điểm.

Bà Phương nhấn mạnh, các biện pháp mạnh không phải là “gậy thần” hay đặc quyền dành cho tổ chức tín dụng. Mỗi ngân hàng khi tiến hành thu giữ tài sản đều phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định pháp luật, bảo đảm sự cân bằng lợi ích giữa bên vay và bên cho vay. Tất cả hợp đồng áp dụng biện pháp thu giữ đều phải hợp pháp, đúng chuẩn tín dụng, các văn kiện đi kèm phải đầy đủ, minh bạch và có quy trình nội bộ rõ ràng, không thể tùy tiện áp dụng.

Theo bà Phương, việc luật hóa quyền thu giữ không nhằm siết chặt người vay mà để nâng cao ý thức trả nợ. Đây được xem như một biện pháp tâm lý pháp lý giúp khách hàng ý thức rõ hơn về trách nhiệm của mình, tránh tình trạng bội tín và góp phần làm lành mạnh hóa thị trường tín dụng.

Tựu trung lại, một khung pháp lý minh bạch, hài hòa giữa quyền có chỗ ở tối thiểu và nghĩa vụ trả nợ không chỉ bảo vệ người vay chân chính mà còn tạo niềm tin cho hệ thống tài chính, bảo đảm dòng vốn tín dụng được luân chuyển bền vững và công bằng cho cả nền kinh tế.

Ngân hàng Nhà nước được giao xây dựng Nghị định theo trình tự, thủ tục rút gọn, dự kiến trình Chính phủ ban hành trước ngày 15/9/2025 và có hiệu lực từ ngày 15/10/2025, trùng thời điểm Luật số 96/2025/QH15 chính thức được áp dụng.

THÙY LINH