Phát triển nông nghiệp trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0

Chuyển đổi số, số hóa trong nông nghiệp giúp tự động hóa các quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý, giám sát nguồn gốc, chuỗi cung ứng sản phẩm, bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, chính xác, an toàn, vệ sinh thực phẩm. Đồng thời, giúp tăng năng suất lao động và nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam.

Trong bối cảnh Cách mạng công nghệ 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ và bao trùm trên tất cả mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề, tiếp cận tới từng người dân, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đang đẩy mạnh các giải pháp, chính sách hỗ trợ “số hoá ngành nông nghiệp”.

Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã làm việc với nhiều bộ, ngành về vấn đề chuyển đổi số nông nghiệp như Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ, các hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp, các địa phương và bà con nông dân.

Bộ đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, các chương trình kết nối các hợp tác xã, bà con nông dân, để giới thiệu các giải pháp đa dạng, đa kênh, đa tương tác về "tri thức hóa nông dân"; giới thiệu các nền tảng số, các kênh thương mại điện tử, các ứng dụng mạng xã hội, kết nối tiêu thụ nông sản: "đưa chợ về vườn", đưa thị trường về đến tận ao cá, vườn cây, thửa ruộng - Bộ trưởng Lê Minh Hoan chia sẻ.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan phát biểu trong Hội nghị trực tuyến “Thúc đẩy số hóa ngành nông nghiệp”.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan phát biểu trong Hội nghị trực tuyến “Thúc đẩy số hóa ngành nông nghiệp”.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng, chuyển đổi số, số hóa trong nông nghiệp giúp giải quyết vấn đề ly nông, ly hương. Khi đó, người dân có thể không làm nông nghiệp nữa, nhưng trên mảnh đất quê hương, họ vẫn có những cách thức mới, công cụ mới để làm giàu, để thoát nghèo. Nhờ vào sức mạnh của công nghệ, người dân đã không còn cần di chuyển về các thành phố lớn nữa mà vẫn tìm ra con đường riêng cho mình. Phát triển dựa trên công nghệ là hướng phát triển bền vững, phát triển xanh tại Việt Nam.

Ngành nông nghiệp ứng dụng công nghệ số

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ, những năm gần đây, ngành nông nghiệp chủ động triển khai mạnh mẽ chuyển đổi số, nhất là ứng dụng công nghệ số vào thực tiễn như: trí tuệ nhân tạo, quản trị dữ liệu, IoT, tự động hóa... vào hoạt động sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản.

Những ứng dụng công nghệ số giúp tự động hóa các quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý, giám sát nguồn gốc, chuỗi cung ứng sản phẩm, bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, chính xác, an toàn, vệ sinh thực phẩm. Đồng thời, giúp tăng năng suất lao động và nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam.

Ứng dụng công nghệ IoT và cảm biến trong canh tác nông nghiệp.

Ứng dụng công nghệ IoT và cảm biến trong canh tác nông nghiệp.

Ghi nhận những giá trị mà chuyển đổi số mang lại, ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho biết, chuyển đổi số có thể giúp doanh nghiệp thủy sản giảm chi phí từ 7-25%. Từ yêu cầu của khách hàng, đơn vị chứng nhận các tiêu chuẩn…, nếu doanh nghiệp ứng dụng số thì khi thực hiện các việc này sẽ giảm bớt khó khăn đi rất nhiều.

Theo ông Nguyễn Hoài Nam, các doanh nghiệp thủy sản có sự ứng dụng số hóa không đồng đều và có thể phân thành 3 cấp: sơ khai; tự đầu tư trên góc độ tự quản trị và đầu tư khá bài bản. Với doanh nghiệp đầu tư bài bản, họ có thể nắm được mọi thông số trong quản trị. Chẳng hạn khi gặp các cuộc thanh kiểm tra, những doanh nghiệp này hoàn toàn có thể tự tin đáp ứng các yêu cầu.

Ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cũng chia sẻ, thực hiện truy xuất nguồn gốc gỗ, hay sắp tới là Quy định chống mất rừng (EUDR) của EU…, công nghệ số sẽ giúp ngành chứng minh điều đó. Khi Việt Nam là một trong những nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới, hàng hóa Việt Nam sẽ đối mặt với nhiều cuộc điều tra về thuế, gỗ hợp pháp... Nếu doanh nghiệp ứng dụng số, chuyển đổi số sớm trong vận hành sản xuất, quản lý doanh nghiệp thì sẽ vượt qua được các "hàng rào" của các thị trường.

Chia sẻ về giải pháp, ông Dương Trọng Hải, Giám đốc Trung tâm Nông nghiệp số VNPT Green thuộc Tập đoàn VNPT cho rằng, để ứng dụng, phát triển nông nghiệp số không phải là vấn đề đầu tư cho doanh nghiệp công nghệ mà đầu tư cho doanh nghiệp nông nghiệp đầu tàu sẵn sàng số hóa. Doanh nghiệp này sẽ dẫn dắt hợp tác xã, nông dân chuyển đổi số, khi đó sẽ tạo thành thị trường số.

"Chuyển đổi số không phải là công nghệ mà là dữ liệu số, chuyên môn hóa. Chính sách cần hỗ trợ vào doanh nghiệp đầu chuỗi. Hiện đang có khoảng 20 nghìn hợp tác xã nông nghiệp, VNPT sẵn sàng chia sẻ khó khăn với các hợp tác xã", ông Dương Trọng Hải cho hay.

Cơ hội cho nông dân làm giàu

Hiện nay, ngày càng nhiều nông dân trên cả nước, nhất là nông dân sản xuất kinh doanh giỏi ứng dụng có hiệu quả công nghệ số vào quản lý, tổ chức sản xuất, tiêu thụ nông sản, trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, mang lại những kết quả hết sức khả quan.

Nhiều chương trình, phần mềm quản trị vườn trồng, nông nghiệp chính xác được nông dân giỏi áp dụng nhằm tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên đất, nước, phân bón… để dần chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang sản xuất nông nghiệp hiện đại, tạo ra nhiều cơ hội tăng năng suất lao động, giảm phụ thuộc vào điều kiện môi trường, thời tiết, kiểm soát dịch bệnh tốt hơn.

Ông Đặng Duy Hiển, Phó Giám đốc Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho rằng, có 3 hoạt động Hội Nông dân cần thực hiện. Đó là: Khai thác dữ liệu từ hệ thống truy xuất nguồn gốc của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nông thôn; hỗ trợ các hội viên, nông dân công cụ truy xuất nguồn gốc, đặc biệt là các hợp tác xã; tập huấn, đào tạo, hướng dẫn triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc với hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn.

Đối với người nông dân có 5 hoạt động cần thực hiện, đó là: Thay đổi nhận thức về chuyển đổi số, thương mại điện tử, truy xuất nguồn gốc; công dân số; tham gia các hợp tác xã; tham gia hệ thống truy xuất nguồn gốc nông sản; tham gia hệ thống khuyến nông phục vụ sản xuất.

Mô hình thí điểm canh tác nông nghiệp “không dấu chân” tại Hợp tác xã Mai Đàn, xã Hải Lâm, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Mô hình thí điểm canh tác nông nghiệp “không dấu chân” tại Hợp tác xã Mai Đàn, xã Hải Lâm, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, hiện mới có 38/63 địa phương triển khai truy xuất nguồn gốc. Mặc dù thời gian qua, các cơ quan liên quan đã tập trung xác định những nhiệm vụ cần triển khai, phương án và phân công trách nhiệm Bộ, ngành, các bên liên quan trong quá trình quản lý và thực thi hoạt động truy xuất nguồn gốc một cách bài bản, hiệu quả; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tài liệu hướng dẫn về truy xuất nguồn gốc nhưng vẫn còn khó khăn, thách thức trong tiến hành các nội dung về đào tạo, bồi dưỡng, tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức của các tổ chức, cá nhân về truy xuất nguồn gốc.

Thách thức của ngành nông nghiệp Việt Nam là sản xuất manh mún, cả nước có 9,6 triệu hộ gia đình nhưng có đến 24 triệu mảnh ruộng. Tư duy và thói quen trong sản xuất nông nghiệp của nông dân và khả năng ứng dụng công nghệ rất thấp. Chuyển đổi số khác với sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, vấn đề đặt ra là quy trình và cách làm. Làm thế nào để trong 1 khai báo truy xuất nguồn gốc, người nông dân phải khai báo ít nhất, nhanh nhất, tiện lợi nhất. Để làm được điều này cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; Chính phủ, các bộ ngành, các tổ chức đoàn thể chính trị, trong đó có vai trò rất lớn của Hội Nông dân Việt Nam. Có như vậy, người nông dân mới thấy “cái được” trong chuyển đổi số, thay vì tư duy làm cũng được, không làm cũng không sao, còn bớt thủ tục, quy trình hơn. Và từ đó, nhận thức sẽ thay đổi, nông dân sẽ tự nguyện chuyển đổi và lúc đó việc “số hóa ngành nông nghiệp” sẽ không còn xa vời.

DUY BÁCH