Bức tranh kinh tế có nhiều điểm sáng
Điểm sáng nổi bật nhất trong nhiệm kỳ qua đó là kinh tế, văn hóa, xã hội tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục phát triển. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) ước đạt 92.813 tỷ đồng, tăng bình quân 7,3%/năm, xếp hạng 10/34 tỉnh, thành phố trong cả nước. Quy mô nền kinh tế đến năm 2025 đạt 188.701 tỷ đồng (theo giá hiện hành), xếp hạng 23/34 tỉnh, thành phố trong cả nước. Giá trị sản xuất các ngành kinh tế đều tăng khá so với đầu nhiệm kỳ.
Năm 2025, GRDP bình quân đầu người ước đạt 3.979 đô-la; thu nhập bình quân đầu người ước đạt 54,89 triệu đồng/người/năm, tăng bình quân 9,4%/năm. Năng suất lao động xã hội theo giá so sánh ước đạt 91 triệu đồng/lao động, tăng bình quân 5,9%/năm.

Công nghiệp đóng góp lớn vào phát triển kinh tế của tỉnh. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2025 ước đạt 185.401 tỷ đồng, tăng bình quân 10,72%/năm. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giữ vai trò chủ lực và là điểm sáng trong phát triển công nghiệp của tỉnh.
Ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản được quan tâm đầu tư với sự tham gia từ nhiều loại hình kinh tế; một số sản phẩm đã từng bước thâm nhập và được đón nhận tại một số thị trường quốc tế có tiêu chuẩn cao, nhất là các sản phẩm từ sâm Ngọc Linh và dược liệu.

Song song đó, cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế-xã hội tại các vùng được quan tâm đầu tư phát triển và đạt những kết quả tích cực. Phát triển các vùng, phát triển đô thị và xây dựng nông thôn mới có nhiều khởi sắc như hoàn thành việc lập và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Quy hoạch tỉnh; Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Dung Quất đến năm 2045, điều chỉnh Quy hoạch Khu kinh tế Cửa khẩu quốc tế Bờ Y, Quy hoạch chung xây dựng Khu du lịch Măng Đen đến năm 2045. Đây là cơ sở để tập trung huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển trong giai đoạn mới.

Công tác giảm nghèo được triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Dự kiến, đến hết năm 2025, tỷ lệ hộ đồng bào dân tộc thiểu số có đất ở, đất sản xuất đạt 98,86%; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2,17%/năm; trong đó miền núi giảm bình quân 4,64%/năm. Đời sống nhân dân vùng ven biển, đảo, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa được nâng lên.
Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Cùng với việc phát triển kinh tế-xã hội, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, tăng cường và triển khai đồng bộ trên các mặt công tác. Trong đó, đã tổ chức thực hiện quyết liệt, toàn diện, đồng bộ các chủ trương, quyết sách của Trung ương về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, hoàn thành các mục tiêu đề ra.

Đến nay, hệ thống tổ chức và các cơ quan được sắp xếp đồng bộ, tinh gọn; kết thúc hoạt động của các ban cán sự đảng, đảng đoàn, thành lập các đảng bộ mới ở tỉnh và cơ sở; kết thúc hoạt động cấp huyện; giảm nhiều cơ quan, đơn vị ở cấp tỉnh. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, đơn vị, tổ chức được rà soát, điều chỉnh, bổ sung rõ ràng hơn, cơ bản khắc phục được sự trùng lặp, chồng chéo, loại bỏ khâu trung gian; tổ chức vận hành thực hiện tốt mô hình chính quyền 2 cấp.
Đối với việc củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên việc củng cố, xây dựng và phát triển tổ chức cơ sở đảng, Tỉnh ủy Quảng Ngãi kịp thời cụ thể hóa các chủ trương của Trung ương về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên phù hợp tình hình thực tế của tỉnh. Triển khai nhiều đề án, phong trào, mô hình mới như: “Dân tin-Đảng cử”; ứng dụng phần mềm Sổ tay đảng viên điện tử; phân công cấp ủy tham gia sinh hoạt ở các tổ chức cơ sở đảng; phân công đảng viên ở cơ sở phụ trách hộ, nhóm hộ gia đình…

Trong nhiệm kỳ, toàn Đảng bộ kết nạp được 14.770 đảng viên, nâng tỷ lệ đảng viên so với dân số trong toàn tỉnh lên 4,24%, tỷ lệ phát triển đảng viên bình quân đạt 3,09%/năm, bảo đảm chỉ tiêu đề ra; đồng thời, rà soát, sàng lọc đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền được tăng cường; nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội được đổi mới. Khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, lòng tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được nâng cao.
Năm bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ qua, Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi rút ra 5 bài học kinh nghiệm.
Một là, chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ. Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng bộ đối với hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện của Đảng trong giai đoạn mới.

Hai là, tăng cường đối thoại giữa bí thư các cấp ủy với người dân, góp phần tạo sự đồng thuận trong nhân dân. Khơi dậy niềm tự hào, ý chí, khát vọng vươn lên của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Phát huy tiềm năng, lợi thế của tỉnh; huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong xã hội để phát triển.
Ba là, bám sát chủ trương của Trung ương, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh và tình hình thực tiễn để cụ thể hóa, tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ đã đề ra với tư duy mới, cách làm mới, bảo đảm khoa học, có trọng tâm, trọng điểm, rõ trách nhiệm, có lộ trình phù hợp; phát huy dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và bảo đảm vai trò quyết định của cấp ủy và người đứng đầu.

Bốn là, công tác cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt có phẩm chất, năng lực, trách nhiệm đối với sự phát triển của tỉnh. Phát huy tính chủ động, sáng tạo, năng lực cụ thể hóa, thể chế hóa, lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên.
Năm là, chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, chủ động phòng ngừa sai phạm; lấy xây là chính, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, giải quyết sớm các vi phạm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.