Tầm nhìn viễn kiến
Lực lượng Đồng minh chống Nhật mạnh nhất và gần Việt Nam nhất khi đó là Mỹ. Những tiếp xúc của Hồ Chí Minh với lực lượng Mỹ được thiết lập từ tháng 3/1945, sau khi trung úy phi công William Shaw được Việt Minh cứu ngày 2/11/1944 ở vùng núi Cao Bằng. Hồ Chí Minh đã chỉ đạo bảo vệ và đưa trung úy Shaw trở lại căn cứ của phi đoàn không quân số 14 của Mỹ ở Côn Minh (Trung Quốc).
Ngày 29/3/1945, Hồ Chí Minh gặp vị anh hùng của phi đoàn Hổ bay nổi tiếng - tướng Claire Lee Chennault, Tư lệnh không đoàn 14. Hồ Chí Minh đã làm cho người Mỹ hiểu hơn về Việt Minh và cuộc chiến đấu giành độc lập của người Việt Nam. Tướng C. Chennault tuyên bố ủng hộ tất cả các hoạt động chống Nhật của các tổ chức, không phân biệt khuynh hướng chính trị của họ. Kết thúc cuộc gặp, Hồ Chí Minh muốn có một bức ảnh của vị tướng. Ông C. Chennault ngạc nhiên nhưng thích thú trước đề nghị của người đàn ông dáng vẻ gày gò nhưng đang dẫn dắt cách mạng Việt Nam. Ông vui vẻ tặng Hồ Chí Minh một bức chân dung cỡ 8x10 cm. Phía sau ảnh, ông tướng tự tay ghi: “Thân ái” và ký Claire. L. Chennault. Với sự giúp đỡ của Charles Fenn - một sĩ quan OSS, Hồ Chí Minh còn mang về cho các đồng chí của mình ở chiến khu Việt Bắc sáu khẩu súng ngắn Colt 45 đời mới nhất. Đó là những bằng chứng quan trọng với Việt Minh về sự ủng hộ của lực lượng Mỹ cho cuộc kháng chiến chống Nhật mà họ đang tiến hành.
Tướng C. Chennault cho rằng, vụ giải thoát trung úy W. Shaw của Việt Minh thật sự là chiếc “chìa khóa thần kỳ” và đã viết trong một báo cáo gửi đến tướng Albert C. Wademayer - Tư lệnh quân đội Mỹ tại mặt trận Trung Quốc: “Tôi nhiệt liệt ủng hộ việc duy trì mối quan hệ tốt đẹp với bất kỳ tổ chức nào tại Đông Dương thuộc Pháp giúp đỡ một cách có hiệu quả việc giải thoát lính Mỹ, có thể yêu cầu sự trợ giúp tại nước đó, bất chấp thái độ chính trị của họ”[1]. Người Mỹ đã nhận ra rằng, Hồ Chí Minh là người cộng sản nhưng không chống Pháp một cách cực đoan. Họ bắt đầu coi Việt Minh như một lực lượng đồng minh tích cực chống Nhật và có thể phối hợp các nỗ lực.

Tư duy chiến lược
Sau những cuộc tiếp xúc ở Côn Minh, một số đội du kích Việt Minh ở Cao Bằng đã được hỗ trợ vũ khí và phương tiện thông tin liên lạc. Hoạt động thu thập tin tức tình báo chống Nhật của OSS - tiền thân của CIA và mạng lưới tìm kiếm và cứu phi công Mỹ được mở rộng trong vùng căn cứ của Việt Minh.
Đại úy Archimedes L. A. Patti - người phụ trách SI (tình báo) của Tổ đặc trách Đông Dương và sau này là chỉ huy của OSS tại Đông Dương, trong tháng 5/1945, đã đánh giá: “đây (Việt Minh - N.V.A) là thành phần quan trọng nhất, được ủng hộ rộng rãi nhất từ nhân dân Việt Nam”. Là sĩ quan tình báo, A. Patti biết rõ về khuynh hướng chính trị của Việt Minh - “họ theo chủ nghĩa Mác” nhưng “mối quan tâm trực tiếp của họ là đánh đuổi Nhật”[2].
Đầu tháng 5/1945, hai sĩ quan OSS đã có thể đều đặn gửi báo cáo về từ Tân Trào. Một trong hai sĩ quan này khi trở về Côn Minh đã tuyên bố: “Người Pháp tại Đông Dương coi như đã kết thúc. Khi chiến tranh chấm dứt, Việt Minh chắc chắn sẽ nắm được chính quyền. Và lúc đó Hồ Chí Minh có thể làm được nhiều việc để giúp chúng ta”[3].
Ngày 17/7/1945, nhóm tình báo Mỹ mang mật danh Deer (Con nai) gồm 5 người do thiếu tá Allison K. Thomas chỉ huy đã nhảy dù xuống Tân Trào. Họ được đón tiếp rất thân thiện bởi nhiều cán bộ địa phương và Thomas (theo tường trình) đã đáp lại: “Đây là lần đầu tiên chúng tôi đến đất nước của các bạn, nhưng đến lúc này chúng tôi có rất nhiều tình cảm và ấn tượng tốt đẹp về vẻ đẹp của cảnh vật và con người của vùng đất này. Tôi hy vọng là sau này chúng tôi sẽ có nhiều cơ hội hơn để đi thăm đất nước các bạn, Việt Nam và đó hẳn là một niềm vui lớn… chúng ta hãy cùng hợp tác để hoàn thành nhiệm vụ và chúng tôi hy vọng mối quan hệ hữu nghị Việt - Mỹ sẽ tồn tại lâu dài”[4]. Đội Con nai đã huấn luyện các kỹ năng quân sự cho 40 người được chọn từ đội du kích của Đàm Quang Trung rồi đi cùng với họ. Hồ Chí Minh đặt tên cho đơn vị hỗn hợp đó là Bộ đội Việt - Mỹ[5]. Ngày 20/8/1945, trung đội này đã tham gia tấn công quân Nhật ở Thái Nguyên dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp.
Dù không đóng vai trò đáng kể về mặt quân sự trong việc kết thúc chiến tranh với phát-xít Nhật ở Đông Dương nhưng điều quan trọng hơn ẩn sau việc hỗ trợ trang bị và huấn luyện chiến đấu cho một lực lượng du kích nhỏ người địa phương trong vùng núi rừng Việt Bắc là những mối quan hệ với lực lượng Mỹ mà Hồ Chí Minh chủ trương và chủ động thiết lập sẽ tạo ra tiền đề để xác lập vị thế của nước Việt Nam độc lập sau này. Ngày 2/9/1945, vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã khẳng định điều đó: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”[6].
Ngày 29/8, Hồ Chí Minh cho A. Patti nghe đọc dự thảo bản “Tuyên ngôn độc lập”. Patti thấy Hồ Chí Minh dẫn một câu trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ: “họ đã được tạo hóa trao cho những quyền không thể nhượng lại được, trong đó có quyền tự do, quyền sống và quyền được hưởng hạnh phúc”. Ông cũng lập tức nhận ra Hồ Chí Minh đã đổi chữ “quyền sống” lên trước từ “tự do” trong bản Tuyên ngôn độc lập của mình. Vị Chủ tịch gỉải thích về sự thay đổi đó: “Đúng, không thể có tự do mà không có quyền sống, cũng không thể có hạnh phúc mà không có tự do”.
Một người trong cuộc nhận ra một điều quan trọng
Chiều 22/8/1945, A. Patti, lúc đó đã là thiếu tá, dẫn đầu nhóm OSS gồm 12 người đáp xuống sân bay Gia Lâm. Ấn tượng đầu tiên của ông là người Hà Nội “vẫn đi bộ, đi xe đạp nhộn nhịp với một dáng tự hào và tin tưởng nhưng vẫn trật tự”. Trong buổi sáng chủ nhật đầu tiên A. Patti ở Hà Nội, ngày 26/8/1945, Võ Nguyên Giáp mời ông và cả nhóm OSS dự lễ đón được tổ chức trọng thể với một đội quân nhạc và khá đông quần chúng tại một vườn hoa nhỏ - nay là trụ sở Báo Nhân Dân ở 71 phố Hàng Trống (Hoàn Kiếm, Hà Nội). Quốc kỳ Việt Nam được kéo lên cùng với quốc kỳ của Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc. Cũng lần đầu tiên giai điệu “Đoàn quân Việt Nam đi...” vang lên trong một lễ đón ngoại giao[7].
Sau buổi lễ, A. Patti được mời tới nhà số 48 phố Hàng Ngang. Gặp lại Hồ Chí Minh sau bốn tháng, ông đã thật sự ngạc nhiên trước “thân hình xương xẩu trái ngược với cái trán khá rộng với nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt”. Bữa tiệc diễn ra ở một căn phòng trên tầng hai với rượu Vermouth khai vị. A. Patti nhớ lại: Cùng tiếp khách với vị Chủ tịch nước Việt Nam mới còn có Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp và có thể cả Nguyễn Khang... Cuộc trò chuyện trong bữa tiệc ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam mới giữa viên thiếu tá tình báo Mỹ và Hồ Chí Minh đã thân mật như những người bạn thân cũ.
Chiều ngày 2/9/1945, A. Patti đi lẫn trong đám đông với bạt ngàn cờ, hoa và biểu ngữ, áp-phích: “Việt Nam của người Việt Nam”, “Thà chết không nô lệ”, trong đó còn có các biểu ngữ “Hoan nghênh Đồng minh”, “Hoan nghênh phái đoàn Mỹ”... Thiếu tá tình báo Mỹ A. Patti đã trực tiếp chứng kiến, cảm nhận niềm vui hồ hởi và ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do của mọi người dân trong ngày trọng đại chính thức thiết lập nền Dân chủ Cộng hòa. Những ấn tượng tốt đẹp với những người cách mạng Việt Nam, đặc biệt là với Chủ tịch Hồ Chí Minh khiến ông A. Patti nhận ra một điều quan trọng: Đó là tình hữu nghị cần có giữa hai dân tộc Việt - Mỹ.
[1] Dixee R. Bartholomew-Feis (2007): OSS và Hồ Chí Minh Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến đấu chống phát-xít Nhật (Lương Lê Giang dịch) - Nxb Thế giới, Công ty văn hóa & truyền thông Võ Thị, Hà Nội, tr 237.
[2] Dixee R. Bartholomew-Feis (2007), Sđd, tr. 293; 296.
[3] Dixee R. Bartholomew-Feis (2007), Sđd, tr. 319.
[4] Dixee R. Bartholomew-Feis (2007), Sđd, tr. 332.
[5] Dixee R. Bartholomew-Feis (2007), Sđd, tr. 322.
[6] Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 4 - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 3.
[7] Xem thêm A. Patti (2000): Tại sao Việt Nam - Nxb Đà Nẵng, tr. 404 - 406.