Nhớ 5 năm trước, đi ghi tốc ký cho ông Nguyễn Văn Trân, tôi có may mắn gặp ông ở cuộc gặp mặt của những chiến sĩ bị giặc Pháp giam cầm ở nhà tù Sơn La. Lúc ấy, tôi kinh ngạc, ông văn sĩ mà mình ngưỡng mộ, nghiền truyện Mẹ tôi sớm biệt một chiều thu, tái bản lúc Hà Nội còn cảnh gạo châu củi quế những năm 80 của thế kỷ trước nên giấy ngả vàng, sờ mặt giấy ram ráp chứ đâu được giấy trắng mịn như bây giờ, hóa ra ở ngay trước mắt mình, đang rôm rả kể lại chuyện tuyệt thực dưới hầm Sơn La, chuyện viết báo, làm thơ, diễn kịch trong tù...
Rồi ông hẹn tôi đến nghe chuyện ông Trần Ðăng Ninh, Nguyễn Văn Trân, Trần Huy Liệu, Lê Hiến Mai trong tù..., tại nhà ông dưới E6, phường Phương Mai. Căn phòng 18 mét vuông quá sơ sài, lỉnh kỉnh những máy vi tính, sách, bản thảo chất chồng trên các giá, kệ đơn sơ và chú mèo mướp rất tinh nghịch. Năm đó, ông đã 86 tuổi rồi mà còn dẻo sức lắm - tiếng vang, đôi mắt tinh anh, gõ máy vi tính nhoay nhoáy, vài tiếng mới đứng lên là thường. Hỏi chuyện ông bị đi đày ở Sơn La, viết ký sự in thành sách Hoa nhạn lai hồng thế nào, ông Trần Huy Liệu thân thiết với ông, dạy ông chữ Nho ra sao, mà tôi mệt muốn đứt hơi, vì ông hơi nặng tai, còn ông càng nói càng say.
Thì ra ông không chịu nổi thói hống hách của tên cai đội ở Quảng Ninh, đánh lại nó và rủ một số người phản chiến mà Pháp kết án ông 5 năm khổ sai, đày biệt xứ, lên Sơn La ma thiêng nước độc từ năm 1941. Từng trang đời, trang sách của ông cứ mở ra trước mắt tôi, khi ông lăn lộn với anh chị em Văn nghệ Hải Phòng rồi Liên khu III, viết cho báo Quân du kích trong kháng chiến gian khổ đến ốm suýt chết mới về Hà Nội, năm 1954 cùng ông Hoài Việt, Ðức Toa, viết cho báo Dân ý và Niềm vui - hai tờ báo ra công khai trong lòng địch. Chí khí và tâm huyết ông cho Văn, cho Ðời thật đáng kính phục.
Sau cái nạn oan sai chỉ vì một bài dịch thuật từ văn học Trung Quốc, ông lặng lẽ chịu đựng, làm đủ nghề của người lao động, thôi thì phó mộc, phó cắt tóc, hớt cá bột trên sông Hồng... đủ cả. Tối tối, nhớ chữ, lại cặm cụi viết trên những mẩu giấy bao thuốc lá, trên hóa đơn mua thuốc còn thừa, do vợ ông đem về... tích trữ trong cái bồ chữ riêng của mình cho đến ngày ngọn gió lành đổi mới đã đổi cả đời ông. Những ngày tháng cực nhọc ấy, tôi nghe ông kể như chuyện cổ tích, và có thể là số phận chăng hay niềm đam mê sáng tác đã ăn vào máu thịt ông như một chủ thuyết sống? Nhưng không phải nhà văn, nhà viết kịch nào chịu khổ nạn cùng cực cũng thăng hoa, rực sáng trên văn đàn như ông với tiểu thuyết lịch sử Hoàng hậu hai triều Dương Vân Nga; Vằng vặc Sao Khuê... và cả sân khấu với Bến nước ngũ bồ, Cung phi Ðiểm Bích - kịch thơ chuyển thể cải lương giành giải A1 Hội diễn sân khấu toàn quốc năm 2007.
Phía sau vinh quang và cay đắng của đời ông, là một bản lĩnh chọc trời khuấy nước mặc dầu trên con đường đã chọn. Ông khí khái mà cũng tràn đầy niềm yêu đời, yêu con người. Ông bảo tôi: 'Nghề viết phải có bản lĩnh, đừng có phụ họa. Tôi ghét nhất mấy anh sáng tác theo kiểu phụ họa...'. Nói đoạn, ông tặng tôi tập thơ Ba Bảy Chín, lại cười rõ vui: 'Ðời tôi đúng là ba chìm bảy nổi chín long đong, nên tôi lấy tên tập thơ là Ba Bảy Chín, nhưng mà mình cứ chung thủy với nghiệp chữ thì chữ không phụ mình'.
Ðêm đầu tiên công diễn vở kịch thơ Bến nước ngũ bồ tại rạp Hồng Hà, ông mời vợ chồng nhà văn Hoài Việt, người bạn thân thiết của ông từ thuở cùng hoạt động báo chí bí mật ở nội thành, viết báo Ý Dân tuyên truyền cho kháng chiến; mời cả tôi, người cắp giấy bút ghi chép và viết chuyện kháng chiến của hai ông. Ông tủm tỉm: 'Tôi sẽ tặng cháu tiểu thuyết Ðôi mắt màu tím viết về thanh niên Hà Nội kháng chiến, lãng mạn mà cũng gan cóc tía lắm, nhưng là chuyện dựa trên cốt truyện và hình mẫu có thật của lứa thanh niên chúng tôi, có cả hai ông bạn già Hoài Việt, Bùi Xuân Phái của tôi trong truyện ấy đấy, giờ thì ta đi xem kịch đã'.
Ngồi ở hàng ghế đầu, dưới ánh đèn sân khấu, trông ông hạnh phúc, rạng ngời. Thỉnh thoảng ông lại gật gù đọc câu thơ theo lời diễn viên: 'Ðấy, chỗ này hay thế, họ vẫn để nguyên, không cắt gì'. Ô, thì ra ông thuộc làu làu kịch thơ dài mấy hồi mấy cảnh. Hôm sau, tôi sang chúc mừng ông, niềm vui vẫn đọng lại trong ánh mắt vui tươi của văn sĩ. Ông hớn hở trỏ cái áp-phích treo trên tường bảo: 'Cháu không để ý, đây là áp-phích cổ động cho vở Bến nước ngũ bồ bà con Việt kiều ở Mỹ diễn. Hồi Pháp tạm chiếm, vở kịch được công diễn khắp trong nam ngoài bắc đấy'.
Giờ thì ông đã đi nhẹ như không về cõi vĩnh hằng. Trên giá sách của tôi có đủ cả Dương Vân Nga, Hoàng hậu hai triều, Ðôi mắt màu tím, Tuyển tập kịch thơ Việt Nam..., tập thơ Ba Bảy Chín, ông tặng tôi... Nhưng điều giản dị mà lớn nhất tôi học được ở ông, chính là tình người, chí khí sống và viết theo lẽ phải mà mình tâm niệm. Trước mắt tôi, ông như đang hiện lên, chiếc áo mầu gụ rất hợp với ông văn sĩ Hà Thành. Ông loạt xoạt đi tìm bản in một truyện đã in từ năm 1953 - Trại tân bồi, và hồn nhiên tuyên bố: 'Mấy ông văn nghệ đời mới cứ thảo luận mãi không ra đổi mới thế nào, tôi đã đổi mới từ khi viết Trại tân bồi rồi, bây giờ đọc lại vẫn mới toanh. Ðấy, cháu cứ về đọc đi khắc biết. Và, Trại tân bồi được in trong tập truyện ngắn mang tên Quán cháo lú, Nxb Thanh niên in năm 2009 - cuốn sách cuối cùng ông tặng tôi đề ngày 23-5-2009 vẫn đậm nét mực ký tên ông.
Khi tôi viết những dòng này, thì ở cõi Tiên, ông đang vui cùng nhà thơ Hoàng Cầm, và cả nhà văn Kim Lân, ông thông gia của ông, họa sĩ Bùi Xuân Phái, người bạn thân thiết đã ký họa chân dung ông từ năm 1951. Chắc các ông đang quây quần bên chén rượu với Nàng Thơ...