Lời biển

Biển đón tôi bằng tiếng sóng dịu êm. Biển mênh mông bình yên đã dưỡng nuôi làng chài, để tôi và số ít trai gái có thể đi xa hơn.

Minh họa: Nguyễn Minh
Minh họa: Nguyễn Minh

Tôi đứng bên mép sóng để nghe những lời thủ thỉ tâm tình. Hôm nay về thăm bố mẹ, và biển, cũng là nói chuyện việc của Đôn. Anh trai tôi định về hẳn sau mười năm bợt bạt mưu sinh phố xá. Trong bữa cơm gia đình, Đôn thể hiện sự bất mãn trước cuộc đời. Anh bảo chẳng biết làm gì kiếm tiền, nên lại đi biển. Không biết trải qua mười năm ở phố, có bao giờ Đôn nghĩ về những kỷ niệm trong ký ức hay thêm một lần chạm bàn tay mình vào những mảng sắc mầu thân thương của tuổi thơ. Còn tôi sẽ chẳng bao giờ quên làng chài nép mình bên cửa sông Trà Hồng xinh xắn, nơi nhiều lần đàn cá heo bạo dạn bơi vào tìm bạn.

Nếu không có những chú cá heo, Đôn sẽ mãi mãi nằm trong lòng biển, năm lên mười tuổi. Đôn còn nhớ không? Một con sóng lớn vùi Đôn xuống, nhờ cá heo đỡ ngang người, đẩy Đôn lên cao, bác Trào nhìn thấy và kịp thời ra cứu. Ông nội tôi bảo, ngoài biển cá heo là loài thông minh nhất. Từ xa xưa, người làng đã chọn cách sống ôn hòa với biển khơi, không đánh bắt cá heo. Cá heo cũng coi con người là bạn, thường cứu giúp khi người gặp nạn. Chiều chiều, cá heo lại về sát cồn, giỡn sóng trong ánh chiều như dát bạc trên mặt biển. Nhiều chuyến dân đi biển, cá heo bơi lượn, đùa giỡn như để tiễn đưa. Có khi cả đàn nhao lên, nhảy múa. Hễ trên thuyền có người khen “các ông múa đẹp quá”, tức thì cả đàn nhảy cao, đẹp hơn.

Bất giác có tiếng gọi phía sau: “Anh Nhật cũng về lễ Ông à?”. Đó là Hằng, người để lại mảnh tình vừa đẹp vừa nhiều nỗi đau trong thời thanh xuân của tôi. Hai đứa yêu nhưng không đến được với nhau. Giờ tôi làm việc ở một thành phố biển khác, lớn và đông hơn làng chài này, nhưng vẫn thấy cô đơn. Còn Hằng là gái một con, có chồng buôn bất động sản giàu có. Song cuộc hôn nhân của nàng nhiều nỗi đắng cay đến khó hiểu. Nàng quay đi hướng khác vì sợ người làng nhìn thấy. Tôi dõi theo bóng nàng đi trên mép sóng, mái tóc bay bay, bỗng thấy lòng thổn thức. Trăng bắt đầu lên khiến biển và dáng người tôi từng yêu trở nên đẹp huyền diệu. Tôi chợt nhớ ra, lần về này, bố mẹ chưa giục lấy vợ.

Đại gia đình cơi nới thêm gian nhà. Đó là nơi tôi sẽ nghỉ mỗi lần về quê. Còn vợ chồng anh Đôn và cậu con trai ở căn buồng trước đây tôi vẫn ở. Sau một tuần anh Đôn đã càu cạu, chê buồng quá bí bách. Vậy chỉ còn cách xây nhà mới để ba thành viên gia đình anh ra ở riêng. Những năm qua, Đôn chẳng tích lũy được đồng nào, còn âm vào của tôi vài chục triệu. Lấy tiền đâu mà xây nhà? Tôi và Đôn ít nói chuyện, dẫu đã năm tháng hai anh em không gặp nhau, cũng chẳng gọi điện. Khi giáp mặt chị dâu, chị hỏi: “Bao giờ thì chú lấy vợ?”. Tôi biết chị dâu chỉ quan tâm chứ không phải nói kháy. Nhưng anh Đôn chen vào: “Đừng để là thằng đàn ông chết già!”. Tôi chỉ cười. Anh Đôn vẫn vậy, cục cằn và dễ nổi nóng. Mẹ có hai con trai nhưng mẹ chỉ nói chuyện được với tôi. Mẹ thương tôi vì mất Hằng. Vì nhà nghèo, vì những gì mà nhiều lúc tôi không hiểu sao nó lại như vậy. Thi thoảng tôi về, mẹ vẫn bảo, số phận con Hằng long đong…

Ngày nào cũng có người ra lễ Ông. Nhưng đông nhất là những ngày giữa tháng tám - khoảng thời gian Ông về cửa sông và “lụy”. Chuyện là mười năm trước, một chú cá heo bơi vào cửa sông, mấy ngày liên tục. Đôn cùng đám choai choai theo dõi, dùng mìn tự chế ném xuống. Sao Đôn ác thế! Đôn biết cá heo đã cứu mình thời bé, giờ lấy oán báo ơn. Cá heo không chết, trốn đi, một tuần sau thì về lại cửa sông Trà Hồng mà “lụy”. Ngư dân đưa cá lên, thấy mình cá có những vết thương lớn, đã loét. Người ta cẩn thận lập miếu, đặt tên là Miếu Xanh, còn gọi là Miếu Ông. Người xưa truyền lại, nơi nào cá về “lụy” là người dân nơi đó làm gì được nấy, đi biển thì tàu thuyền ăm ắp cá tôm. Nhưng giờ, cá chết do mìn tự chế của vài kẻ xấc xược, chẳng biết tai họa nào sẽ giáng xuống làng! Người làng giận những người hại cá thiêng. Ông nội tôi vì buồn cháu đích tôn đã vợ con mà dại dột, nên ốm nặng. Bố tôi mắng Đôn một trận, rồi ngồi thở. Từ đó lúc nào cũng lặng lẽ như tấm bia đá. Sau khi gây ra tai họa, Đôn chê làng nghèo. Anh đưa vợ con ra phố và chung với bạn bè mở quán nhậu. Ban đầu đông khách nhờ một số người quen nhiệt tình ủng hộ, giới thiệu khách đến. Quán làm ăn được nên nhóm nhân viên nảy lòng tham, tổ chức ăn chặn tiền. Đôn tức giận đuổi. Khổ nỗi trong số bốn nhân viên bị đuổi việc, có một cậu là em họ của đầu bếp. Khi em họ nghỉ vài tuần, đầu bếp cũng nghỉ đi tìm việc khác. Quán trở nên ế ẩm do đồ ăn không ngon như trước, rồi xảy ra mâu thuẫn giữa những người chung vốn. Đôn lao đao tìm cách khởi nghiệp lại, thất bại, rồi tay trắng, về làng.

Tính tôi trái ngược Đôn. Tôi trầm tính và khép mình. Đôn nông nổi, dễ nóng giận và có những việc làm bất chấp. Đôn không tôn trọng ý kiến người xưa và người hôm nay. Cả vùng cấm dùng lưới bát quái thì Đôn vẫn sắm một bộ, rồi lấy thuyền của bố đang nằm bờ, lén lút đi đánh. Tôi gọi về cho Đôn, chỉ bảo: “Một mình anh làm một kiểu, không ai chấp nhận đâu”. Đôn quát vào điện thoại: “Thằng này không làm thế thì ăn cám à? Biển cạn cá tôm rồi”. Làm được mấy ngày thì tàu Đôn bị phát hiện, lưới giã cào bị thu, còn mất tiền phạt. Khoản tiền phạt Đôn cũng chẳng biết lấy đâu ra. Cuối cùng bố mẹ tôi phải chi. Vợ anh trách chồng, còn anh trách cuộc đời, trách cái mênh mông của đại dương. Bố lại gọi, bảo: “Người ta phạt cho thằng Đôn trắng mắt ra”. Bố xót của, thương con, còn tôi thương bố. Hai anh em tôi vẫn chưa làm bố yên lòng.

Tôi vào lễ Ông, chợt thấy cái xốn xang ập òa nơi trái tim mình, chợt thấy xấu hổ vì Đôn đã làm điều dại dột. Nếu không vì trò dại dột của anh trai tôi, đàn cá heo sẽ khác, có thể đông hơn bây giờ. Biển vẫn sẽ vui và lãng mạn hơn. Mênh mông và kỳ bí hơn. Bao năm biển như người mẹ, cho ngư dân tôm cá. Nhưng nguồn lợi ấy đâu phải vĩnh viễn, nếu mỗi người đều quá đáng vơ lấy tất cả cho mình. Có những nơi, người ta làm lòng biển thắt lại. Trong khi ấy người làng tôi vẫn bền bỉ dạy con từ tốn, nghe biển và yêu biển. Làng chài không giàu, nhưng đa số ngư dân sống hòa thuận, sinh con đẻ cái từ đời này sang đời khác. Tôi mong cát đừng thay đổi. Những hàng phi lao cũng hãy mãi che chắn cho ngôi làng tảo tần giàu đức hy sinh, và là chứng nhân cho sự bền bỉ của sóng.

Tàu khởi hành lúc gà gáy sáng. Tôi và bố, chú Hải, chú Bường nói chuyện rôm rả. Chú Hải hỏi, khi xa làng, có bao giờ tôi sẽ quay về làm ngư dân. Tôi hỏi lại tôi, có quay về làm ngư dân? Chắc chắn rồi, tôi sẽ về với sóng, cát và gió. Sự mặn mòi, mộc mạc đã giữ tâm hồn tôi rồi. Tôi biết, chuyến đi biển này bố muốn gắn kết anh em tôi, nên từ tuần trước bố đã gọi điện hẹn. Nhưng mặt Đôn lúc nào cũng như đưa đám.

Trên hành trình, bố vừa gợi nhắc rất nhiều chuyện quá khứ, thời thanh niên gian khổ và sôi nổi của mình. Xưa bão tràn về vùng biển này nhiều lắm, sóng gầm lên dữ dằn. Chẳng ít ngôi làng năm nào cũng có người đi và không về nữa. Còn ở Cồn Đỏ, bảy mươi năm qua chưa ai phải bỏ mạng trong những chuyến vươn khơi. Biết ơn biển, nên các lão ngư bảo con cháu phải hiểu cái mênh mông của biển, để sợ, yêu và giữ gìn.
Giữa trưa, bất ngờ mây đen kéo đến làm không gian tối thẫm. Gió tăng mạnh. Bố giục mọi người mau thu lưới. Giọng bố lạc đi giữa mênh mông, như thể ông dự cảm thấy điều chẳng lành. Con tàu gần mười một mét như cái lá tre, chao đảo giữa mênh mông dữ dằn. “Không kịp mất thôi”. Giọng chú Bường hốt hoảng. Bố bảo: “Cố lên nào”. Gió và sóng mỗi lúc một mạnh. Mọi người không đủ sức kéo lưới nữa, đành buông và bám chặt vào tàu. Đột nhiên, Đôn hét: “Con phải cứu lưới”. Tiếng Đôn vừa dứt thì một con sóng chồm tới, nhẫn tâm như cố vùi tàu xuống đáy sâu. Những thứ có trên sàn tàu bị hất văng. Tôi lộn nhào trong dòng nước. Nhờ những điều mình học được nên tôi đủ bình tĩnh để biết mình cần làm gì. Bố hét lên khi biết Đôn đã rơi. Bố nhảy xuống trước, tôi nhảy xuống sau. Bố và tôi vật lộn với sóng đến nhừ mỏi, song không thấy Đôn. Tàu vẫn nghiêng ngả. Bố và tôi hét lên gọi, nhưng bị gió và sóng xóa sạch. Rồi bố bảo tôi lên thôi, kẻo chết hết. Mọi người vừa chống chọi với sóng, vừa quẩn quanh tìm Đôn. Mặt bố thất thần, ân hận. Đã nửa tiếng mà không thấy Đôn. Gió đã nhẹ đi, chỉ mưa còn nặng hạt. Bố bảo, chắc thằng Đôn chìm rồi, cả đội phải vào bờ, kẻo tất cả bị vùi xuống.

Đất liền đã hiện lên ở phía trước, bầu trời sáng hơn, mưa chỉ còn lắc cắc. Tôi bỗng thấy có điều gì lạ lắm. Là cá heo. Một bầy cá heo. Mừng hơn là Đôn bám vào một cái phao ở giữa bầy cá heo đang tung tăng như đang đùa giỡn. Tàu tiến gần Đôn, những con cá heo rẽ ra. Đôn được đưa lên tàu. Đôn kể, khi anh đang chới với, kiệt sức và nước đã ập vào mũi nhiều lắm thì chạm phải một vật lớn, trơn trơn đẩy mình lên. Anh nhận ra là cá heo, nên đã bám vào để nổi. Sau đó, anh đã tìm thấy cái phao…

- Con ơi, phúc nhà ta lớn quá!

Bố tôi nói, rồi cho tàu tăng tốc. Tàu neo bờ, mọi người vẫn chưa hoàn hồn. Đôn nhào đến ôm vợ thật chặt và khóc như đứa trẻ. Chưa bao giờ anh phải trải qua những giờ phút kinh hoàng như thế. Khóc xong, anh nhìn tôi vẻ hối lỗi. Anh nói: “Giờ thì anh sợ biển rồi. Hôm nay chúng ta đã gặp may…”.

Đôn ra Miếu Ông thắp hương. Anh hứa không bao giờ dùng lưới giã cào và bảo mình sẽ làm theo một cách khác. Còn tôi, chắc sẽ ngỏ lời yêu cô gái yêu biển, thích sưu tầm những vỏ ốc vào một ngày trời thật đẹp. Cô ấy bảo, trong những cái vỏ ốc, có giữ lời thì thầm của biển. Biết đâu, cô ấy chính là mảnh ghép của cuộc đời mình.

Truyện ngắn của THANH QUANG