“Làng tôi dáng một câu ca”

“Trẻ nhớ nhà, già nhớ làng”. Từ khi bước vào tuổi lục tuần, tôi thường nhớ về làng mình, một nỗi nhớ mơ hồ, man mác nhưng sâu lắng dù tôi chỉ sống ở làng 14 năm thời thơ ấu. Từ khi xa làng đi học rồi đi làm, thỉnh thoảng tôi mới về mà lần dài nhất cũng chỉ 2-3 ngày.

Đường làng khang trang, sạch đẹp.
Đường làng khang trang, sạch đẹp.

Chiến tranh và nghèo đói

Ký ức về làng với tôi là những năm tháng chiến tranh và nghèo đói. Ngôi trường tôi học phải sơ tán ra cánh đồng, dưới một gốc đa cổ thụ, gần một cái mả người bệnh phong. Từ nhà đến trường là con đường chang chang nắng hè và lầy lội mỗi mùa đông. Đường xa, đói và rét nhưng sợ nhất là mỗi lần báo động máy bay, lũ chúng tôi phải lao vào những căn hầm chữ A để tránh bom. Thật tình, tôi không sợ bom bằng sợ rắn. Không ít lần chúng tôi lao vào hầm thì lũ chuột và rắn từ đó lao ra.

Nỗi sợ thứ hai của tôi là đói. “No dồn, đói góp”. Cái đói tích tụ từ ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác là sự dày vò không nhỏ với lũ học trò đang tuổi ăn, tuổi lớn chúng tôi.

Tôi nhớ không nhầm thì lần đầu tiên tôi được ăn kem là năm học lớp 6. Dạo đó, tầm khoảng hơn 10 giờ thì ông bán kem chở 4 cái phích trên cái xe đạp cà tàng lóc cóc đi qua cổng trường tôi. Mỗi khi cái kèn rao kem kêu lên toét toét là cả lớp nhốn nháo nhìn qua cửa sổ. Khách hàng duy nhất ở lớp tôi chỉ có thằng Bảy, nhà bán phở ở bến đò Vô Hối. Tôi không thể quên hình ảnh thằng Bảy một tay cầm con dao nhíp gại gại xuống hè xi-măng, một tay cầm que kem, tiện một lát mỏng như lát chanh để uống rượu tây thời nay để chia cho lũ bạn bè. Hôm ấy, không nhớ vì lý do gì đó, Bảy chiêu đãi tôi. Sau khi “tiện” cái lát kem mỏng như tờ giấy, Bảy bắt tôi ngửa cổ, há miệng rồi nó đặt ngược que kem, dùng bàn tay đập đập. Lát kem từ từ rũ xuống lưỡi tôi và lúc ấy, một cảm giác lan tỏa mà cho đến bây giờ, dù đã ăn rất nhiều các loại kem hảo hạng nhưng không bao giờ tôi có được cảm giác ngất ngây ngày đó.

Làng đang thay đổi từng ngày

Cái sự đói nghèo ấy đeo đuổi làng tôi (và có lẽ không chỉ làng tôi) đến tận những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX. Từ khi Đổi mới, làng thay đổi theo vận tốc nhanh dần, từng bước xóa đói rồi giảm nghèo để giờ đây đang trên đà phát triển nhanh chóng.

Sự thay đổi bắt đầu từ những việc rất bình thường như từ xe đạp Thái Bình sang xe mini Nhật bãi rồi xe máy và bây giờ nhiều nhà đã sắm ô-tô.

Trong bữa ăn hằng ngày cũng vậy. Những năm trước chỉ cốt no bụng thì giờ đây, phải là ăn ngon, mặc đẹp. Những món ăn thuộc hàng “sơn hào, hải vị” ngày xưa như thịt gà, cá chép, tôm hấp… bây giờ cũng ít người ăn. Trước đây sợ chết vì đói thì giờ đây, nhiều các cô, các chị làng tôi tuyên chiến rất hùng hồn: “Thà chết còn hơn… béo”.

99a0f4537608fe56a719.jpg
Chợ quê bày bán đủ loại hàng hóa, thực phẩm.

Trong xây dựng cơ bản, nếu trước kia căn nhà chỉ là để tránh nắng, mưa, chống bão gió thì giờ đây, không chỉ chắc chắn mà phải sạch và đẹp. Vui nhất là ý thức vệ sinh môi trường đang có bước chuyển biến mạnh mẽ. Nếu trước đây công trình phụ thường là tận dụng vật liệu thừa sau khi xây nhà chính thì giờ đây, nó được ưu tiên hàng đầu. Cái toa-lét tự hoại ngày nào còn là xa xỉ bây giờ là 100%. Đường quang, điện sáng, nước sạch cùng với những tiện nghi hiện đại xuất hiện trong mỗi căn nhà.

Bài thơ tôi viết về làng cách đây chưa lâu in trên Sách giáo khoa lớp 3 tập 2 bộ Cánh diều có đoạn: “Những con đường lầy lội - Giờ đã rộng thênh thang - Cần ăng-ten đón gió - Vắt câu chèo sang ngang…”, hai câu trước thì còn đúng nhưng 2 câu sau đã lỗi thời vì bây giờ cả làng không có cột ăng-ten nào nữa bởi đã chuyển sang đường truyền cáp.

Để có sự thay đổi này có nhiều lý do nhưng một trong những nguyên nhân chính, đó là đa dạng hóa ngành nghề. Không còn thế độc canh trồng lúa, nhiều khu công nghiệp lớn nhỏ đã thu hút một lực lượng lao động không hề nhỏ.

Nhà chú em của tôi như nhiều gia đình khác trong làng, có 4 khẩu được chia gần 9 sào ruộng (2,2 sào/khẩu) mỗi năm thu khoảng hơn 3 tấn lúa. Nếu thuê cấy gặt, chăm bón hết khoảng 50%, tức là 1,5 tấn lúa, còn lại 1,5 tấn/năm. Nếu tính thành tiền thì không lớn, chỉ 13-14 triệu đồng nhưng đủ lương thực cho cả nhà ăn và chăn nuôi. Trong khi đó, chồng làm nghề xây dựng loanh quanh trong địa bàn mỗi tháng tháng kiếm khoảng 10 triệu, vợ đi làm công ty 7-8 triệu, mỗi năm kiếm trên dưới 200 triệu đồng. Gạo trong bồ, gà vịt trong chuồng, rau ngoài vườn, cá dưới ao, từ năm nay lại không phải đóng học phí, nếu suôn sẻ mỗi tháng chỉ tiêu hết 5-6 triệu đồng cho xăng xe, điện nước… Số còn lại tiết kiệm xây xong nhà rồi mua sắm điều hòa, ti-vi, tủ lạnh, bàn ghế…, trong nhà sáng choang toàn đồ dùng xịn.

Có lần tôi hỏi chú em: “Sao chú không mua cái ô-tô để đi đây, đi đó?”. “Em dành tiền cho các cháu học đại học xong rồi tính bác ạ”.

Có ai đó nói rằng muốn biết về văn hóa, kinh tế của miền đất chỉ cần đến chợ. Làng tôi có tới 2 cái chợ. Một họp vào buổi sáng ở đầu làng, một ở cuối làng họp buổi chiều. Trong chợ, cơ man là hàng hóa. Từ mớ rau, con cá, con cáy, con cua, thịt các loại đến hải sản. Quần áo, giày dép đủ mọi chủng loại, ta có, tây có, tàu cũng có. Quán ăn cũng trên dưới chục nhà hàng, chỉ ngồi nhà nhấc điện thoại alo là phục vụ tận nơi.

Một chân trời hy vọng

Từ 1/7/2025, sau khi sáp nhập, làng tôi thuộc xã Đông Quan, tỉnh Hưng Yên. Do sáp nhập từ 5 xã trước đây (Đông Phong, Đông Lĩnh, Đông Huy, Đông Tân, Đông Á) nên diện tích khá rộng, hơn 23 km2, dân số khoảng 25.000 người.

Hôm 27/7, làng tổ chức lễ cầu siêu cho linh hồn các liệt sĩ và Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, gặp Chủ tịch UBND xã Lại Tiến Mạnh về dự. Trao đổi với tôi, anh cho biết công việc ngập đầu. Nào hoàn thiện thể chế, sắp xếp, xây dựng cơ sở vật chất để phục vụ hành chính công theo định hướng của tỉnh. Nào tập trung công tác cán bộ, tổ chức bộ máy. Rồi quyết liệt trong quản lý nhà nước về đất đai, giải quyết chế độ chính sách cho người có công, công tác bảo hiểm và an sinh xã hội. Một trong những việc trọng điểm hiện nay là công tác giáo dục và y tế theo tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm. Theo kế hoạch, xã sẽ mở rộng cụm công nghiệp Đông Phong lên 70 ha, xây dựng 2-3 trung tâm thương mại, phấn đấu đến năm 2030 thu nhập bình quân hơn 100 triệu đồng/người/năm.

“Tuy nhiều việc và gặp không ít khó khăn, trở ngại về cơ sở vật chất, công tác cán bộ để có thể phục vụ nhân dân nhanh hơn, chu đáo hơn, chuyên nghiệp hơn nhưng nhìn chung, tinh thần anh em và bà con rất phấn khởi”, Chủ tịch Lại Tiến Mạnh hồ hởi chia sẻ.

Chánh Văn phòng UBND xã Nguyễn Tiến Chiến cho biết, nhờ sự giúp đỡ của tỉnh và các cơ quan chức năng, xã đang xây dựng thương hiệu Gạo làng Giắng. Do địa hình bao bọc bởi các dòng sông, ruộng đồng màu mỡ nên năng suất cao, chất lượng tốt và đặc biệt là không khí, nguồn nước, đất đai không bị ô nhiễm nên hạt dẻo, vị thơm và đặc biệt an toàn.

Chi hội trưởng Người cao tuổi thôn Nguyễn Đức Nhấn cho biết, từ khi có chính sách trợ cấp cho người cao tuổi, các cụ vui lắm. Hôm đi lĩnh, làng vui như ngày hội dù số tiền không nhiều.

Tôi xa làng đã hơn nửa thế kỷ, thỉnh thoảng mới về quê nhưng tâm hồn và trái tim luôn hướng về làng nên cảm nhận rất rõ sự đổi thay của quê mình. Từ ngày sáp nhập, tuy cũng có chút ưu tư nhưng niềm tin và hy vọng đã lấn át. Kế hoạch làm con đường cao tốc 10 làn nối thành phố Thái Bình (cũ) vừa được phê chuẩn. Tuyến đường ven biển cũng sắp khánh thành. Quê tôi giờ một đầu nối với Thủ đô, một đầu nối với Biển Đông chắc chắn sẽ là một lợi thế không nhỏ.

06b6fd54af0e27507e1f.jpg
Cơ sở trường lớp được quan tâm đầu tư xây dựng.Cơ sở trường lớp được quan tâm đầu tư xây dựng.

Mai đây, khi Diêm Điền được xây dựng thành cảng nước sâu, đường cao tốc hoàn thành, chắc chắn nhiều và rất nhiều khu công nghiệp nữa sẽ tiếp tục mọc lên. Người dân làng tôi sẽ sẵn công ăn việc làm, thu nhập ngày càng cao. Câu ca dao “Thái Bình là đất ăn chơi” sẽ mãi mãi trở thành cổ tích, không còn mang nỗi niềm mà để đọc cho vui bên những bàn trà, tiệc rượu.

Nói những điều trên, không phải là tôi không nhận thấy không ít người dân làng tôi cũng như người dân cả nước nhiều nơi còn lắm những khó khăn, vất vả nhưng tôi tin và hy vọng về một tương lai tươi sáng của đất nước.

Tôi yêu làng tôi như bạn yêu làng bạn, dù ngôi làng ấy ở nơi đâu trên đất nước này. Làng tôi dáng một câu ca/Có cây đàn gió dạo qua đêm chèo/Làng tôi dáng một câu Kiều…

BÙI HOÀNG TÁM