Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9

Làng Chăm nghìn tuổi giữa đất Hà thành

Chuyện mà tôi đang kể là về vùng đất Phú Gia, một ngôi làng đặc biệt. Làng nằm cách trung tâm Hà Nội hơn mười cây số về phía tây bắc. Phú Gia xưa tên Nôm là làng Gạ, tục gọi làng Già rồi Bà Già hương; đến thời Minh Mạng là tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, trấn Sơn Tây.

Cổng đình Phú Gia.
Cổng đình Phú Gia.

Ngày nay Phú Gia thuộc phường Phú Thượng, thành phố Hà Nội. Làng được hình thành trong quá khứ xa xưa mà những người dân nơi này ngày nay không phải ai cũng thật sự tỏ tường nguồn gốc.

Lần theo sử cũ

Hơn mười thế kỷ rồi. Ngàn năm là một khoảng thời gian dài dằng dặc với biết bao biến động. Để rồi chiều nay, tôi ngồi trong căn nhà giữa làng cùng các ông Công Ngọc Phượng và Công Phương Điệp, hai lão niên của đất Phú Gia, hồi cố lịch sử của làng quê họ. Hai ông Phượng và Điệp cho biết, theo cuốn “Bản xã thần ký” do cụ Công Nghĩa Lẫm dịch, nguồn gốc sâu xa của làng này có từ thời nhà Đường đô hộ, khoảng thế kỷ VII, nhưng để trở thành làng Chăm là từ thời nhà Lý. Sách Đại Việt sử ký (Bản kỷ, quyển 2, kỷ nhà Lý), có ghi: “Giáp Thân, Minh Đạo năm thứ 3 (1044), tháng 9 vua từ Chiêm Thành về, làm lễ cáo thắng trận ở Thái Miếu, xong về ngự ở điện Thiên An, mở tiệc rượu mừng. Ngày hôm ấy, bầy tôi mang theo năm nghìn người Chiêm và các thứ vàng bạc, châu báu về. Vua xuống chiếu cho các người Chiêm mang theo đều được nhận là người cùng bộ tộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang đến Đăng Châu, đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chiêm Thành”. Lần theo sử cũ, Vĩnh Khang sau này là miền Từ Liêm, Hoài Đức. Một bộ phận người Chăm đã về lập cư ở đất Phú Gia ngày nay, thuở dựng ấp lấy tên Chiêm là Đa Gia Ly, lâu dần được gọi chệch là Bà Già hương.

Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc là một trong những người tìm hiểu khá kỹ về nguồn gốc Chăm của làng Phú Gia. Trong sách “Mặt gương Tây Hồ”, ông viết: “Thực tế cho phép nghĩ rằng, đây nguyên là một khu vực mà triều Lý, triều Trần tập trung người Chiêm Thành, những người tự nguyện theo hoặc là tù binh. Họ có chùa, đình mang màu sắc riêng. Cái tên làng Bà Già mà Đại Việt sử ký toàn thư cho là đọc chệch từ cụm từ Đa Gia Ly cũng là một bằng chứng”. Đa Gia Ly nghĩa là gì? Các nhà nghiên cứu văn hóa Chăm cho rằng, đó là đọc lệch từ “Đi Gia Lề”, nghĩa là “một vùng quê trù phú”. Nói chung, Phú Gia là một vùng đất có lai lịch kỳ lạ, nhưng hiển thị trong Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, quyển 7, kỷ nhà Trần), đoạn nói về Chiêu văn vương Trần Nhật Duật, một vị tướng nhà Trần rất giỏi ngoại ngữ: “Nhật Duật thích chơi với người nước ngoài, thường cưỡi voi đến chơi ở làng Bà Già. Làng này có từ hồi Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, bắt được người Chiêm cho ở đấy, lấy tiếng Chiêm đặt tên là Đa Gia Ly, sau gọi chệch thành Bà Già. Nhật Duật đến chơi, có khi đến ba bốn ngày mới về. Lại hay đến chơi chùa Tường Phù, nói chuyện với nhà sư người Tống. Nếu là khách Tống thì ông kéo ghế ngồi gần, chuyện trò suốt buổi; nếu là người Chiêm hay người các man khác, thì đều theo phong tục nước họ mà tiếp đãi”.

Tù binh Chăm được quan quân nhà Lý mang về dần dần được triều đình cho ổn định cư dân, học nói tiếng Việt, được kết hôn, hòa huyết với người Việt. Ở những nơi người Chăm lập cư, có sự giao thoa văn hóa mạnh mẽ, nhưng những dấu ấn Chăm đến nay vẫn thể hiện rõ ràng. Ông Công Phương Điệp khẳng định: “Về gốc gác của làng chúng tôi, theo nhiều tư liệu, từ ngàn năm trước, đây là nơi giam giữ tù binh. Đến tận bây giờ, ở Phú Gia có hai dòng họ lớn, minh chứng nguồn gốc Chăm, đó là họ Ông và họ Bố, nhưng gọi theo âm Việt là húy phạm nên phải đổi thành họ Hy và họ Công…”.

Dẫu ngày nay đang tọa lạc giữa đô thị lớn nhưng Phú Gia không bị đánh mất vẻ đẹp yên bình của một làng quê Bắc Bộ. Ngày chúng tôi thăm làng, được nghe kể và trực tiếp chiêm lãm những nét đặc trưng văn hóa phảng phất trong ngôi đình làng và ngôi chùa mang tên Bà Già tự có lịch sử 1000 năm, trong niềm tự hào của cư dân khi nhắc đến cội nguồn qua tên gọi của các dòng họ. Tôi cũng nhận ra đâu đó nét nhân chủng đặc trưng Chăm của cư dân nơi này; những người đàn ông có khuôn mặt vuông, da ngăm đen, tóc xoăn, môi hơi dày và tiếng nói có phần lơ lớ. Tại di tích chùa Bà Già còn một pho tượng hộ pháp và trước cửa chùa vẫn đặt một đôi phỗng đá mang dấu ấn phong cách nghệ thuật Chăm cổ hết sức rõ nét. Sư trụ trì giới thiệu: “Đôi phỗng này được chế tác từ đá sa thạch, có chiều cao khoảng một mét, đầu tượng có búi tóc, mặt vuông nhìn thẳng, trán ngắn, mắt to tròn, mũi lớn, má bạnh, cằm nhọn, miệng rộng, môi dày, tai dài, miệng như đang mỉm cười. Tượng có bụng phệ, mông cong được che bởi một cái váy có hông tạo thành nút và dây buộc đúng với phong cách nghệ thuật Chăm cổ thường thấy ở phía nam…”.

Là làng cổ ngàn năm giữa đất Thăng Long, Phú Gia là nơi tập trung nhiều di tích, di sản quý giá. Hai di tích của làng được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia là chùa Bà Già được công nhận năm 1996 và đình Phú Gia được công nhận vào năm 2001. Hai cây đa cổ thụ nằm song song bên sân đình cũng được công nhận là cây di sản Việt Nam. Ngay cả nghề nấu xôi nức tiếng của làng đã đi vào ca dao “Làng Gạ có gốc cây đề/ Có sông tắm mát, có nghề nấu xôi” cũng được công nhận danh hiệu làng nghề truyền thống Hà Nội-làng nghề truyền thống xôi Phú Gia-Phú Thượng từ năm 2017.

Nơi đón Bác Hồ từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội

Đặc biệt, người dân Phú Gia tự hào vì làng quê của họ là nơi Bác Hồ và nhiều vị lãnh đạo cao cấp của Trung ương từng dừng chân hoạt động cách mạng trong những ngày tháng tiền Khởi nghĩa. Ngược dòng lịch sử, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Phú Gia đã sớm trở thành một trong những “an toàn khu”, đùm bọc, che chở những cán bộ cấp cao của Đảng. Ngay từ năm 1941, nhà bà Công Thị Lùn (tức bà Hai Vẽ) ở thôn Phú Gia là địa chỉ đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, các đồng chí Thường vụ Trung ương Đảng Hoàng Văn Thụ, Lê Đức Thọ, Hoàng Tùng và gần hai mươi Ủy viên Trung ương từng lưu lại khi về hoạt động ở vùng này. Tại nhà bà Hai Vẽ, Tổng Bí thư Trường Chinh đã dự thảo nhiều văn kiện quan trọng, trong đó có “Đề cương văn hóa Việt Nam” nổi tiếng. Tờ báo Cờ Giải Phóng, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Đông Dương, do đồng chí Trường Chinh trực tiếp phụ trách cũng đã được tổ chức in ấn nhiều số tại đây.

Phú Gia là nơi dừng chân của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đoàn cán bộ cách mạng trên đường từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Theo lời kể của ông Công Ngọc Dũng, từ ngày 19/8/1945, nhân dân Hà Nội nổi dậy Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền. Hoàng hôn ngày 23/8/1945, từ bến đò Sũ bên bờ nam sông Hồng, một đoàn 19 người thong thả đi về làng Phú Gia và được liên lạc dẫn đến ngôi nhà bà Nguyễn Thị An, bà nội của ông Dũng, một phụ nữ thông tuệ, giàu lòng yêu nước. Đoàn người đó là những cán bộ cách mạng từ chiến khu về, trong đoàn có một cụ già người cao gầy, nước da sạm nắng, râu tóc dài, đặc biệt là vầng trán rất cao và đôi mắt sáng khác thường. Ngày hôm sau, gia đình bà An lại được tiếp đón nhiều vị khách từ nội thành ra gặp gỡ ông cụ “từ chiến khu về”. Đến ngày 25/8/1945, đoàn cán bộ tạm biệt gia đình để vào nội thành, bà An ân cần tổ chức bữa cơm thân mật để chia tay đoàn. Thế rồi, ngày 2/9/1945, cả gia đình bà An đọc báo, xem ảnh nửa tin nửa ngờ, không biết ông cụ đến nhà hôm đó có phải là Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập? Mãi gần một năm sau, ngày 24/11/1946, bà An được báo tin có Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm làng, thăm nhà. Giây phút gặp lại, những người trong gia đình bà An xúc động vô cùng khi được biết, ông cụ “từ chiến khu về” ngày đó chính là lãnh tụ Hồ Chí Minh vô vàn kính yêu; các vị khách từ thành ra gặp cụ chính là các ông Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh và Nguyễn Lương Bằng. Để ghi nhớ ngôi nhà và gia đình gắn với một thời điểm quan trọng trong quãng đời hoạt động của Bác Hồ, năm 2021, ngôi nhà của gia đình cụ Nguyễn Thị An được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia. Ngày chúng tôi ghé thăm, ngôi nhà xây từ thời thuộc Pháp với mầu sơn trắng vẫn được bảo tồn nguyên vẹn; ông Công Ngọc Dũng, cháu nội cụ An được vinh dự nhận trách nhiệm trông coi và đón khách thăm nhà.

Rời di tích nhà bà Nguyễn Thị An, theo con đường lên dốc, chúng tôi đứng trước bến đò Sũ xưa bên bờ sông Hồng trong chiều lộng gió. Ngắm dòng sông lững lờ trôi trước mặt, tôi hình dung về một ngày mùa Thu của 80 năm trước, Bác Hồ kính yêu thong thả bước rời đò. Người đã cùng các đồng chí của mình dừng chân ở đất Phú Gia, làng Chăm cổ nghìn năm, trước khi về nội thành Hà Nội và đọc bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa…■

Ghi chép của UÔNG THÁI BIỂU