Đột phá trong quản lý, giám sát và bảo vệ rừng (Bài 2)

Kiến tạo hệ sinh thái số toàn diện, hiện đại, bền vững

Chuyển đổi số góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ rừng, nhưng thực tế tại nhiều địa phương vẫn còn không ít rào cản về hạ tầng, nhân lực và thể chế. Để vượt qua thách thức này, ngành lâm nghiệp cần những giải pháp đồng bộ nhằm kiến tạo hệ sinh thái số toàn diện, hiện đại và bền vững.

Lực lượng kiểm lâm tỉnh Cao Bằng phát huy tốt hiệu quả của thiết bị bay không người lái trong quản lý và bảo vệ rừng. (Ảnh: MINH TUẤN)
Lực lượng kiểm lâm tỉnh Cao Bằng phát huy tốt hiệu quả của thiết bị bay không người lái trong quản lý và bảo vệ rừng. (Ảnh: MINH TUẤN)

Rào cản từ hạ tầng và nhân lực

Ông Hoàng Phượng Vỹ, Quyền Chi cục trưởng Kiểm lâm tỉnh Cao Bằng cho biết, địa phương có hơn 376 nghìn ha rừng, song lực lượng kiểm lâm chỉ có 164 người. “Bình quân một kiểm lâm địa bàn phải quản lý tới 3.360 ha rừng. Trong điều kiện địa hình hiểm trở, giao thông khó khăn, nếu không có công nghệ, gần như không thể hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng để tiếp cận công nghệ lại vướng kinh phí, thiết bị, thiếu đào tạo đồng bộ”, ông Vỹ nói.

Hạn chế về nguồn lực tài chính là rào cản đầu tiên. Trong bối cảnh diện tích rừng lớn, thiết bị hiện đại là “cánh tay nối dài” nhưng thực tế, nhiều địa phương chỉ mới tiếp cận ở mức thí điểm. Tại Cao Bằng, với hơn 376 nghìn ha rừng, nhưng toàn tỉnh mới có một chiếc flycam chuyên dụng. Quyền Chi cục trưởng Kiểm lâm Hoàng Phượng Vỹ chia sẻ: “Chiếc flycam trị giá tới 70 triệu đồng, cho nên việc trang bị rộng rãi rất khó khăn”. Còn ở Sơn La, dù đã triển khai hệ thống FRMS, GIS hay viễn thám, nhưng kinh phí duy trì, cập nhật dữ liệu và đầu tư thiết bị đầu cuối cho cán bộ cơ sở vẫn là gánh nặng.

Thiếu thiết bị kéo theo việc ứng dụng phần mềm viễn thám, bản đồ số hay cảnh báo cháy sớm chưa thể triển khai rộng khắp. Cùng với đó, hạ tầng kỹ thuật thiếu đồng bộ càng tạo khoảng cách. Nhiều vùng lõi, vùng đệm của Vườn quốc gia Tà Đùng hay Khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung của tỉnh Lâm Đồng hoàn toàn không có sóng điện thoại, không có internet, thậm chí thiếu điện lưới. Dữ liệu thu thập tại thực địa khó truyền về trung tâm kịp thời, khiến hệ thống cảnh báo sớm bị chậm, làm giảm giá trị của công nghệ số.

Nhân lực chưa theo kịp yêu cầu số hóa cũng là bài toán nan giải. Một bộ phận cán bộ kiểm lâm tuổi cao, quen tác nghiệp thủ công, khó tiếp cận công nghệ mới.

Một rào cản sâu xa hơn là thiếu khung pháp lý cụ thể cho chuyển đổi số trong lâm nghiệp. Giám đốc Vườn quốc gia Tà Đùng Khương Thanh Long cho rằng, Luật Lâm nghiệp chưa đề cập sâu đến chuyển đổi số, chưa có nội dung cụ thể liên quan đến ứng dụng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI)… trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng dẫn đến thiếu cơ sở pháp lý cho đầu tư công nghệ mới.

Chuyển đổi số trong lâm nghiệp tuy đã tạo dấu ấn nhưng chưa đạt độ bứt phá như kỳ vọng. Đó là trang thiết bị công nghệ phục vụ giám sát rừng chưa được đầu tư đồng bộ, đầy đủ trên phạm vi toàn quốc, dẫn đến việc triển khai ứng dụng ở nhiều địa phương còn hạn chế, thiếu nhất quán, ảnh hưởng đến hiệu quả giám sát và quản lý.

Ông Nguyễn Hữu Thiện, Phó Cục trưởng Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

Theo ông Nguyễn Hữu Thiện, Phó Cục trưởng Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), chuyển đổi số trong lâm nghiệp tuy đã tạo dấu ấn nhưng chưa đạt độ bứt phá như kỳ vọng. Đó là trang thiết bị công nghệ phục vụ giám sát rừng chưa được đầu tư đồng bộ, đầy đủ trên phạm vi toàn quốc, dẫn đến việc triển khai ứng dụng ở nhiều địa phương còn hạn chế, thiếu nhất quán, ảnh hưởng đến hiệu quả giám sát và quản lý. Nguồn dữ liệu viễn thám chất lượng cao, như ảnh SPOT6/7 hoặc tương đương, hiện chưa được cung cấp rộng rãi, khiến nhiều địa phương gặp khó khăn trong công tác điều tra, kiểm kê rừng theo quy định của Luật Lâm nghiệp. Trong bối cảnh tổ chức bộ máy theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm và phối hợp trong triển khai các hệ thống phần mềm, thu thập và sử dụng dữ liệu lâm nghiệp chưa được làm rõ, thống nhất.

Cần nhiều giải pháp đồng bộ hóa

Ông Nguyễn Hữu Thiện, Phó Cục trưởng Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho biết, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã mở ra hành lang quan trọng, song cần nhanh chóng thể chế hóa bằng các quy định pháp luật cụ thể về chuyển đổi số trong lâm nghiệp. Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm sẽ tham mưu xây dựng hệ thống văn bản kỹ thuật về thu thập, xử lý dữ liệu viễn thám, quy định sử dụng thiết bị bay không người lái, cơ chế chia sẻ dữ liệu liên ngành. Đây là nền tảng pháp lý để công nghệ không bị “treo” trên giấy, mà thật sự đi vào công việc quản lý.

Ông Trần Tuấn Ngọc, Cục trưởng Viễn thám quốc gia chia sẻ: Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật về viễn thám, đặc biệt là xây dựng, ban hành các quy định liên quan đến thu nhận, xử lý, tích hợp và sử dụng dữ liệu viễn thám trong quản lý rừng. Đồng thời, cần lồng ghép mục tiêu chuyển đổi số vào các chiến lược phát triển rừng bền vững, chương trình quốc gia như REDD+ và các chương trình bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.

Song song đó, đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ, hiện đại hóa trạm thu ảnh viễn thám, xây dựng cơ sở dữ liệu rừng số hóa toàn quốc và phát triển các nền tảng phần mềm quản lý rừng thông minh, tích hợp dữ liệu từ ảnh viễn thám, hệ thống thông tin địa lý (GIS), AI và thiết bị bay không người lái. Việc áp dụng các công nghệ hiện đại này không chỉ nâng cao khả năng giám sát rừng theo thời gian thực mà còn giúp tự động hóa quy trình phát hiện mất rừng, cháy rừng, cảnh báo sớm và ra quyết định chính sách kịp thời.

Cần đầu tư hạ tầng công nghệ đồng bộ, hiện đại; ưu tiên phát triển hạ tầng mạng lưới internet và các thiết bị phù hợp đáp ứng được yêu cầu công việc như máy tính bảng, điện thoại thông minh có tích hợp GPS và các phần mềm chuyên dụng. Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Cao Bằng Nông Quốc Hùng chia sẻ: “Nếu mỗi Hạt kiểm lâm có ít nhất hai flycam và cán bộ được đào tạo đồng bộ về kỹ năng số, tư duy số thì hiệu quả quản lý sẽ tăng lên gấp nhiều lần”.

Ứng dụng AI và học máy (machine learning) để phân tích ảnh viễn thám là xu hướng tất yếu. Nhưng công nghệ sẽ chỉ là công cụ hỗ trợ nếu thiếu con người làm chủ.

Ông Trần Tuấn Ngọc, Cục trưởng Viễn thám quốc gia

Ông Trần Tuấn Ngọc, Cục trưởng Viễn thám quốc gia nhấn mạnh: “Ứng dụng AI và học máy (machine learning) để phân tích ảnh viễn thám là xu hướng tất yếu. Nhưng công nghệ sẽ chỉ là công cụ hỗ trợ nếu thiếu con người làm chủ”. Do đó, các khóa đào tạo về kỹ năng số, GIS, viễn thám, an toàn dữ liệu cần được tổ chức thường xuyên, gắn với chuẩn nghề nghiệp của kiểm lâm thế hệ mới. Đồng thời, cần khuyến khích hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu để chuyển giao công nghệ, tạo nguồn cung nhân lực số cho ngành lâm nghiệp.

Song song với đó là nâng cao vai trò cộng đồng bởi chuyển đổi số chỉ bền vững khi có sự tham gia của cộng đồng, những người sống cùng rừng. Đây sẽ là nguồn lực xã hội quan trọng, bổ sung cho lực lượng kiểm lâm vốn mỏng hiện nay. Chuyển đổi số trong lâm nghiệp là một quá trình kiến tạo hệ sinh thái số toàn diện, nơi công nghệ, dữ liệu, nhân lực và chính sách phải được tiến hành đồng thời. Việc triển khai các giải pháp này sẽ giúp ngành lâm nghiệp đóng góp hiệu quả vào phát triển kinh tế số, xã hội số và bảo vệ “lá phổi xanh” của đất nước…

ĐỨC HIẾU THƯỜNG-YÊN TUẤN