Chốn lạ đường quen

Giấc mơ thiên nga

Tôi được xem ballet lần đầu tiên năm sáu tuổi, trên ti-vi đen trắng nhà hàng xóm.
Minh họa | HẢI KIÊN
Minh họa | HẢI KIÊN

Đó chính là màn “Vũ điệu của bốn nàng Thiên Nga nhỏ”, một trong những màn múa nổi tiếng nhất mọi thời đại, trích từ vở ballet “Hồ Thiên Nga” mà mãi sau này tôi mới biết. Hồi ấy, ti-vi thì bé, hình ảnh lúc mờ lúc tỏ, muỗi ro ro, đôi khi còn nhiễu sóng nhập nhằng, nhưng tôi vẫn vô cùng thích thú, chăm chú dõi theo bốn vũ công xinh đẹp, xiêm áo bồng bềnh trắng muốt, bước chân đều tăm tắp, cần cổ vươn cao rồi cúi xuống nhịp nhàng, nắm tay nhau lướt theo tiếng nhạc du dương. Vẻ đẹp thanh khiết và những động tác đầy mê hoặc của các nàng Thiên Nga in dấu vào tâm hồn trong trẻo của con bé sáu tuổi. Tôi ước mình là một vũ công ballet. Những lúc một mình, tôi nhảy múa theo tiếng nhạc tự tưởng tượng trong đầu. Tôi vốn là đứa mơ mộng, hay nghĩ ngợi vẩn vơ, hồn vía “treo ngược cành cây” đâm ra “hậu đậu”, nên hay làm vỡ làm đổ, hay ngã, đi bình thường cũng ngã nói gì đến múa. Thế mà tôi nhất định xin mẹ cho vào lớp ballet ngoại khoá, ba buổi một tuần, sau giờ học chính. Mẹ đồng ý ngay. Mẹ bảo, tập múa cũng là một cách rèn luyện sức khỏe; tính kiên trì, khả năng tập trung chú ý. Và múa cùng âm nhạc sẽ khiến cho trí tưởng tượng thêm phong phú.

Lớp ballet nghiệp dư ấy có khoảng hai mươi đứa con gái sàn sàn từ sáu đến chín tuổi. Chúng tôi được phát những đôi giày mũi cứng bằng vải thô màu xanh bộ đội, còn váy áo tập thì có gì mặc nấy. Mẹ may cho tôi một chiếc váy xòe màu be mềm mại, cắt lại từ hai cái quần dệt kim Đông Xuân của mẹ. Buổi học đầu tiên, mới tập khởi động duỗi tay duỗi chân thôi mà tôi đã ê ẩm hết mình mẩy. Có đứa trong lớp còn khóc ầm ĩ, nằng nặc đòi về. Nhưng tôi là một trong những học sinh gan lì nhất, mắm môi mắm lợi, nghiến răng vượt qua mọi thử thách ban đầu. Sau vài buổi thì quen, không thấy quá khó nữa. Rồi càng ngày tôi càng thích tập hơn. Cô Thược, cô giáo của chúng tôi rất nghiêm khắc, uốn nắn các trò từng li từng tí. Tôi sợ nhất lúc bám vào gióng ngang tập đứng relevé, động tác cơ bản nâng người lên trên nửa bàn chân, cao hơn là đứng bằng đầu ngón chân, lưng và chân phải thật thẳng. Nếu lưng không thẳng, sẽ bị cô Thược dùng thước kẻ phát vào mông một cái, khá là đau. Giọng cô vang rền, đếm nhịp cho chúng tôi nhún lên nhún xuống, duỗi ra duỗi vào, lặp đi lặp lại : “Một, hai, ba, tà tà tà, ba, hai, một, chuyển!”. Cứ thế, cả tiếng đồng hồ, cô “đánh vật” với hai mươi đứa học trò; đứa bụ đứa gầy; đứa cao đứa thấp, đứa khéo đứa vụng; đứa mềm như bún; đứa cứng như gỗ. Sau giờ học, chúng tôi còn được chia bánh kẹo bồi dưỡng, mua từ tiền cha mẹ học sinh đóng góp. Đó là lúc chúng tôi phấn khích nhất. Đứa nào đứa nấy mồ hôi mồ kê nhễ nhại, má đỏ hây hây, hân hoan xếp hàng nhận phần, hôm thì kẹo trứng chim, hôm lại kẹo sữa, rồi bánh quy gai, bánh vừng vòng... Có đứa ăn ngay, có đứa để dành, hoặc đổi cho nhau lấy mấy món linh tinh lúc nào cũng sẵn trong túi bọn con gái: như cặp tóc, vòng tay, kim băng, chỉ màu, cúc áo…. Học múa vừa khỏe, vừa vui, lại rủng rỉnh kẹo bánh, đồ chơi như thế, nên tôi càng mê.

Một lần, trong lúc đang tập thăng bằng, tôi bỗng trượt chân ngã nhào xuống. Vừa đau vừa sợ, tôi khóc lặng cả người. Cô Thược lo cuống cuồng. Các bạn xúm xít quanh tôi xuýt xoa, khiến tôi càng tủi thân. Tôi may mắn không bị gãy tay gãy chân, dù phần mềm sưng tím và một chiếc răng của tôi bị mẻ. Tôi phải nghỉ học chính suốt một tuần. Mẹ không cho tôi đến lớp múa nữa. Giấc mơ “thiên nga” của tôi gãy cánh từ đó. Nhưng tình yêu dành cho ballet vẫn còn nguyên, lớn dần lên theo năm tháng đời tôi. Thời thiếu niên, tôi sưu tầm ảnh những vũ công ballet trên hoạ báo Liên Xô, dán vào sổ tay. Những bức ảnh tuyệt đẹp của Maya Plisetskaya và Alicia Alonso, hai huyền thoại trong lịch sử nghệ thuật ballet thế giới, được tôi nâng niu cắt dán hết sức cẩn thận. Những bức ảnh ấy chuyển động trong trí tưởng tượng gieo mầm từ năm tôi sáu tuổi. Những cánh tay, những bước chân, những bờ vai trổ lá mềm rượi xanh tươi, đơm cành mảnh mai mà vững chãi.

Nghệ thuật múa ballet với kỹ thuật hình thể và ngôn ngữ riêng biệt, có xuất xứ từ triều đình Ý, thời Phục Hưng, phục vụ cho các lễ cưới hoàng gia và tầng lớp quý tộc. Năm 1547, tiểu thư người Ý Catherine de Médicis kết hôn với vua nước Pháp Henri II. Hoàng hậu Médicis chính là người giới thiệu nghệ thuật ballet sang triều đình Pháp. Trải qua nhiều thế kỷ, ballet được truyền dạy bài bản và có tầm ảnh hưởng rộng rãi trên toàn thế giới. Từ ballet cổ điển, tân cổ điển đến ballet đương đại, nghệ thuật ballet phát triển mạnh mẽ, nổi bật ở Pháp, Nga, Anh, Mỹ… với nhiều nhà hát ballet lừng danh và những nghệ sĩ tài năng xuất chúng.

Số phận cho tôi tới ballet từ một lối khác. Tôi có một số người thân, bè bạn từng là những diễn viên múa. Trong ba con gái nhà bác Lê Mai, bạn thân nhất của mẹ tôi, thì hai người là nghệ sĩ ballet: chị cả Lê Vân và chị út Lê Vi. Họ là diễn viên ngôi sao (danseuse étoile) của Nhà hát Nhạc Vũ kịch Việt Nam và Đoàn ca múa Nhạc nhẹ Trung ương một thời. Mỗi người sở hữu vẻ đẹp và thế mạnh riêng, nhưng hai chị đều thuộc hàng ngũ những nghệ sĩ xuất sắc nhất của thế hệ mình. Chị Vân nổi tiếng với các vai diễn cổ điển như Thiên Nga trắng – Odettle trong trích đoạn “Hồ Thiên Nga”; cô thôn nữ ngây thơ Gisele trong vở “Gisele”, hay Phrygia, người vợ xinh đẹp, điểm tựa tinh thần của anh hùng Spartacus trong vở “Spartacus”. Còn Vi được yêu thích qua những màn múa dân gian, mà điển hình là điệu múa “Chim Công” lộng lẫy. Ngày xưa, tôi nhiều lần được xem chị Vân tập múa. Trường tôi ngay cạnh Nhà hát Nhạc Vũ kịch Việt Nam trong khu Văn công Mai Dịch. Hở ra là tôi chạy ù sang, ngồi một góc ngắm chị. Thời ấy chị Vân đang ở đỉnh cao của nhan sắc và sự nghiệp. Vóc dáng chị dong dỏng, thanh tú, tóc dài vấn cao, gương mặt đầy biểu cảm, đôi mắt huyền thăm thẳm. Có cảm giác từng mạch máu, từng giọt mồ hôi, từng sợi tóc chị cũng uyển chuyển dập dìu theo tiếng nhạc. Chị Vân và Vi đều dành trọn vẹn đam mê suốt tuổi thanh xuân rực rỡ của mình cho múa, dù cả hai lấn sân sang điện ảnh cũng rất thành công. Có lần tôi hỏi Vi: “Nếu được làm lại, Vi học múa nữa không?”. Vi cười tuơi rói, trả lời: “Học chứ! Vi múa là Vi thở đấy!”. Tôi đã viết tặng Vi bài thơ “Vườn Vi”, có những câu này: “Vũ điệu xanh từ tranh Degas/ bước xuống vườn/ Vi nhón chân khẽ nắng…./ Hoa yêu Vi hoa nở/ lá dỗi Vi lá úa/ Chúng thở cùng Vi mỗi ngày/ Chúng ngắm nhìn Vi múa/ vũ điệu vườn đắm say”.

Tôi yêu những bức tranh của Degas, hoạ sĩ Pháp được coi là một trong những người sáng lập ra trường phái Ấn tượng, một trào lưu nghệ thuật khởi nguồn tại Paris vào cuối thế kỷ mười chín. Hơn một nửa số tác phẩm của ông có đề tài nhảy múa, đặc biệt là hình ảnh các vũ nữ ballet. Tôi may mắn được xem một số triển lãm tranh Degas trong các bảo tàng lớn ở châu Âu. Lần nào tôi cũng cảm động khi ngắm những tác phẩm Degas tuyệt sắc. Tôi lặng im như hoá đá. Các vũ nữ trong tranh thì chuyển động, lúc mãnh liệt bừng bừng như lửa, lúc mát rượi dịu dàng như nước, lúc dào dạt như đại ngàn, lúc mềm mại như lụa… Tôi nhớ đến chị Vân, nhớ đến Vi. Rồi tôi nhớ đến chính mình năm lên sáu tuổi, vụng về tập những bước nhảy đầu tiên với một tình yêu ngây thơ, tinh khiết, chân thành.

Hơi hai mươi năm trước, lần đầu tôi mới được thưởng thức trọn vẹn vở “Hồ Thiên Nga” do các nghệ sĩ Pháp biểu diễn tại Nhà hát Victoria ở Singapore (Victoria Theatre and Concert Hall). Tôi thả mình vào từng điệu múa, từng nét nhạc Tchaikovsky. Có khoảnh khắc, tôi thấy mình nhẹ bẫng như một chiếc lông vũ, bay liệng lâng lâng. Cũng có lúc bỗng giật mình rơi xuống nặng trĩu như đá tảng. Rồi tôi là con thuyền nhỏ xoay trên mặt hồ gió nổi, và trái tim tôi biến thành mảnh trăng tan vỡ tận đáy hồ. Cái kết của phiên bản ấy thật buồn. Odette dẫu sẵn lòng tha thứ cho sự phụ bạc của Hoàng tử, nhưng nàng vẫn không thể thoát khỏi lời nguyền vĩnh viễn phải sống kiếp thiên nga vì bị người yêu phản bội. Cuối cùng, nàng đã chọn cái chết.

Gần đây, tôi xem lại “Hồ Thiên Nga” ở Nhà hát Hồ Gươm do các nghệ sĩ Nhà hát Ballet Quốc gia Nga biểu diễn. Phiên bản có cái kết vui. Phù thủy Rothbart và Thiên Nga đen Odile thua cuộc. Cái Ác bị tiêu diệt. Hoàng tử và Odette mãi mãi hạnh phúc bên nhau. Đèn nhà hát bật sáng, các nghệ sĩ cúi chào trong những đợt sóng vỗ tay không ngớt của khán giả. Tôi như thấy sóng cuồn cuộn mặt hồ đêm. Vầng trăng tan dưới đáy hồ là những mảnh trái tim tôi vỡ vụn. Sóng rồi cũng lắng. Mặt hồ dần phẳng lặng. Vầng trăng lại tròn đầy, vằng vặc sáng. Trái tim mong manh của tôi cần một mặt hồ yên gió. Tôi vốn vụng về, đi bình thường cũng ngã nói gì đến múa. Tôi luôn ghi nhớ bài học giữ thăng bằng và những vấp ngã để có thể vững vàng, bình thản tiếp tục bước đi.

NGUYỄN BẢO CHÂN