Ông là một “kho thuốc nổ” - cứ có cơn cớ, hứng thú sẽ nổ tung các cuộc tao ngộ. “Thuốc nổ” ấy là kiến văn, nguồn dữ liệu, khối chữ nghĩa dồi dào, là niềm vui “bá vai bá cổ” xóa ranh giới khoảng cách thầy - trò.
Có những đêm thơ, sinh hoạt ngoại khóa giữa các tân - cựu sinh viên Văn khoa, ông tưng bừng cùng các nhóm tới tận đêm vắt sang sớm hôm sau. Giữa sân ký túc xã Mễ Trì, giọng Nghệ của ông khó lẫn với những câu thơ tình, chuyện vui dí dỏm…
Cứ thế, mái ấm nhà thầy Nguyễn Hùng Vĩ trong khu tập thể trường là nơi nhiều khóa sinh viên đến tá túc đàm đạo văn chương. Ông cưu mang nhiều sinh viên hoàn cảnh khó khăn, cho ở, cho ăn, cho mặc, cho tiền đóng học phí… Đương nhiên là ông cho cả chữ, chữ đó không chỉ có trong giáo trình, bài giảng, mà còn đọng trong nhân cách người thầy. Đến tận giờ khi ông đã nghỉ dạy, một nhóm học trò cũ hò nhau góp sức in cho ông tập thơ mà ông từ chối suốt, chắc không nỡ làm phiền. Tập thơ đầu tay vẫn chưa ra đời nhưng nhiều câu thơ đã sống trong lòng bạn đọc, trong đó có nhiều thế hệ sinh viên.
***
Cái chất của ông thầy xứ Nghệ theo nhà thơ, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ đi vào trong thơ với một nỗi buồn trong trẻo, hướng về cái Đẹp. Thơ Nguyễn Hùng Vĩ hội đủ sự lãng mạn của trường phái “Tổng hợp Văn Hà Nội”.
Đây, một khổ thơ về “Đà Lạt”: Rồi thì kệ gió đông cứ rót vào nắng hạ/Kệ hoa xuân nhỏng nhảnh cạnh cành thu/Chào em nhé cô đơn sau rặng quỳ vàng chóe/Ta xuôi đèo Ngoạn Mục lượn như ru... Khẩu khí của một lữ khách trước vẻ đẹp riêng có của Đà Lạt. Bài thơ dùng dằng rất thơ, hiện đại hơn một số nhà thơ xưa cũng viết về Đà Lạt. Nó có nhịp, hơi thơ, cách dùng ngôn ngữ phá cách hơn. Lãng mạn và kiêu bạc có hơi hướng Thu Bồn khi “Tạm biệt Huế” “trở về hóa đá phía bên kia”.
Nguyễn Hùng Vĩ đi nhiều, không đoái hoài chốn quan trường mà chỉ trong vai nhà nghiên cứu điền dã nhặt từng câu ca, câu vè cổ từ dân gian vốn phong phú giàu có. Vì thế ông có nhiều thơ về các miền quê nhưng đầy chất tả tình mà không liệt kê thắng cảnh, địa danh như mô-típ “Thơ báo cáo” nhiều người mắc. Viết về các vùng đất nhưng là nói thân phận; cảnh huống đều mang hình bóng con người. Trái tim mẫn cảm luôn đập trước nhịp đi của thiên nhiên, trời đất; và cảnh đó, không gian đó luôn ôm trùm tâm trạng nhà thơ.
Nguyễn Hùng Vĩ còn có chất hóm hỉnh rất dân gian và đôi lúc như đồng cảm với Nguyễn Duy, nhà thơ mà ông hay trích dẫn trong các cuộc hội ngộ văn chương với bạn bè và học trò. Ông đùa vui với vợ - người luôn ở bên nâng giấc cho giấc mơ ông giáo nghèo - để giấu đi những thương cảm không cần phải nói ra, khoe ra: Từ ngày em sắm vôi ve/ Em bôi em trát em chê tôi già/ Hôm nay em ốm nằm nhà/ Ve không trát được em già hơn tôi.
Các thi sĩ hay làm thơ tình với hình mẫu lồng ghép nhiều người đẹp, chứ ít người làm thơ tặng vợ. Người thực, việc thực, viết mà không ra là chợt thành có lỗi. Ta cũng gặp ở Nguyễn Hùng Vĩ những câu lục bát thật tình: Thế mà đông cũng sang xuân/ Trời cho ta sống đồng lần bên nhau/ Tóc dăm sợi bạc trên đầu/ Ôm em mà hát mấy câu dối già... (Dối già).
Cứ thế ông viết cho quê nhà, cho mẹ, cho vợ con và bè bạn bằng cái tình ấm áp, trân quý, nâng niu. Bài “Gửi chị” có cách nói về Hà Nội, quê hương thứ hai của tác giả với nhiều đặc trưng: Tây Hồ lạnh, Khói hương Quán Thánh, Thiền Quang Thu hoa sữa, Nhật Tân Xuân… nhưng nếu cứ kể mãi thì biết kết thế nào, cuối cùng cũng có phương án thật bâng khuâng: Bánh mì nóng giẫy hoa niên đói/ Xuýt xoa nhau ngon đến bây giờ/ Ðất dường hẹp lại đường ngắn lại/ Nhớ nhau chả đủ nhớ ra hồn/ Chỉ có xưa là xa ngái/ Nơi này gửi chị chút xưa suông...
Bài thơ theo nhịp cổ, tạo một không khí xưa, đầy thương cảm làm ta hình dung một người chị ở quê nhà đang mong ngóng, nhớ thương người em nơi đất khách quê người… Tất cả hình ảnh Hà thành cũ vẫn còn nguyên trong những mô tả kỹ, chỉ riêng ngày xưa mãi không trở lại. Đây là một cách tạo bất ngờ khiến bài thơ gây xúc động về một thời xa lắc xa lơ nhiều dư vị.
Về mẹ, Nguyễn Hùng Vĩ cũng kính dâng nhiều bài thơ giàu ý nghĩa. Vượt lên nỗi riêng tư, người mẹ của nhà thơ đã hòa vào hình ảnh quê hương, xứ sở thân thương. Mỗi người đọc đều thấy có mẹ mình trong đó, những bà mẹ tảo tần khắp các vùng quê Việt, cả đời trông ngóng con xa. Đất nước mình là vậy, chiến tranh, loạn lạc, ly tán…, đâu đâu cũng rưng rưng hình bóng mẹ:
Con đã viết hàng ngàn trang chữ lá/ Thả sông đời bằn bặt trôi xuôi/ Con đã về một lần trên bến mới/ Sông đổi dòng bến lạ lắm mẹ ơi (Lá bàng rụng bến sông quê).
Thơ Nguyễn Hùng Vĩ, nếu cứ chỉ xuôi xuôi dòng lãng đãng, nhiều mỹ từ của giới sinh viên Văn khoa sẽ không có gì đáng nói. Thơ ông đằm sâu nỗi niềm thế sự, suy tư thời cuộc, xa xót kiếp thầy giáo nghèo nhưng không chịu đánh mất mình. Đau nhưng luôn bình thản đón nhận như một lẽ thường tình của số phận: Những đồng tiền vá víu đời khó nhọc/ Cha mẹ nát nhàu lận đận những tháng năm/ Ký ức dẫu buồn cũng là tài sản/ Của hồi môn giữ suốt cuộc đời này. (Đợi).
Trong nhiều bài thơ, Nguyễn Hùng Vĩ tìm được lối nói mới, cấu tứ lạ, thoát khỏi mệnh danh nhà thơ “dân gian” mà nhiều người đặt, để làm “mô-đéc” chính mình. Ví như bài “Giường nhà ta”, không gian chỉ xoay quanh mấy thước vuông giường mà nói thật sâu về mối quan hệ bền chặt cha mẹ - con cái - vợ chồng. Mảnh giường vừa là vật chất - “ruộng đồng”: Đêm hóa ruộng những vai cày um úp; vừa mang giá trị tinh thần: Lặng lẽ anh nghiêng nằm ôm em/ Dường thấy bình yên qua hơi thở/ Đất đai cũng nằm nghiêng mà sinh nở. Bài thơ không một từ ngợi ca trực diện người vợ nhưng lại ngầm nhắc đến chủ thể chính của sự sinh sôi hạnh phúc…
***
Một nhà thơ ẩn mình trong vai ông giáo, khiêm cung lặng lẽ luôn đau đáu nỗi đời, thầm cất giấu lai lịch mình trong những câu thơ nhưng nhức: Đầu thai câu giã bạn/ Ta cầm tinh nỗi buồn. Và dù buồn đau đến mấy thì trong người thơ ấy vẫn rung ngân những nhịp thơ nhân bản, yêu đời, yêu người, nồng ấm ly rượu rót trong mùa đông giá, để ngỡ nghe như có tiếng “mùa hạ rót vào mùa đông”. Nhiều lớp sinh viên và độc giả chắc cũng đều cảm nhận như vậy dù chưa được nhìn thấy tập thơ đầu tay của thầy, thưa thầy Nguyễn Hùng Vĩ!
Nhân Dân hằng tháng trân trọng giới thiệu 2 bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Hùng Vĩ
GẶP LẠI
Hai tay nâng chén rượu đào
Em đem mùa hạ rót vào mùa đông
Hai tay bưng lấy má hồng
Em đem mắt khuấy đục lòng ta lên
Chỉ trời xưa chẳng xe duyên
Lưới trần nay buộc ràng quen mất rồi
Bể tình đã tạnh sóng khơi
Xin đừng gieo gió nữa người ta yêu
Lắng phèn nước đã trong veo
Đỏ dây muống, tím hoa bèo mà chi.

VỀ HUẾ
(Tặng các anh các chị đồng môn Thế Tường, Toàn Thắng, Hồng Minh, Bích Lài và...)
Sông Hương chảy chậm qua Vĩ Giạ
Mây trắng trên dòng cũng trầm ngâm
Hình như sắp hút vào biển cả
Sông tiếc nguồn xa phút nuối thầm.
Về đây coi bộ sông đã mỏi
Miên man dìu sóng thêm một tuổi
Cái thời đâu biết tháng ngày trôi
Cơm áo lo toan ngốt cả người.
Xưa Huế với mình nhiều bạn lắm
Quán cơm An Cựu mép bờ sông
Bạn tuổi hoa niên dằng dặc đói
Đi dạy về đạp xích lô rong.
Đứa buồn ngật ngưỡng quanh năm rượu
Nhân tình thế thái bạc như vôi
Ra bến ôm trăng làm Lý Bạch
Nhọc nhằn gửi lại khói hương thôi.
Chiều về ngồi uống chậm như sông
Mai mốt người còn có nhớ không
Cái thủa tóc buông vời bến cũ
Huế đã xa xôi đến chạnh lòng.