Từ tâm tư của trí thức Việt Nam tới suy tư của Bảo Đại
Bức điện này được đề cập tại cuộc họp công khai do Tổng hội Sinh viên Việt Nam tổ chức vào tối 21/8/1945, sau ngày tổng khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội. Trong hồi ký của mình, GS Nguyễn Xiển kể lại, ông cùng một số nhà trí thức được mời đến khu học xá Đông Dương, để nói chuyện với sinh viên. Tại đây, lời hiệu triệu từ các trí thức kêu gọi ủng hộ Cách mạng, ủng hộ Việt Minh nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt từ sinh viên.
Theo Thời báo Dân chủ (cơ quan của Việt Minh miền bể, Hải Phòng) phát hành ngày 25/8/1945, trong cuộc họp kéo dài 40 phút ấy, Nguyễn Xiển đã đề nghị trước cử tọa về việc mình cùng các học giả gửi một bức điện yêu cầu Vua Bảo Đại thoái vị. Trước khi gửi vào Huế, bức điện được Nguyễn Xiển dõng dạc đọc 3 lần. Trong đó nêu: “Yêu cầu Hoàng đế thoái vị. Tuyên bố độc lập cộng hòa dân quốc. Giao chính quyền cho một chính phủ lâm thời do Việt Minh triệu tập” và “Yêu cầu Mặt trận Việt Minh cấp tốc, không trễ một giờ một phút nào, thương lượng với các đảng phái, để lập ngay và công bố chính phủ lâm thời ấy”. Đề nghị ngay lập tức được cử tọa chấp nhận. Sau này, GS Nguyễn Xiển lý giải trong hồi ký, việc yêu cầu Vua Bảo Đại thoái vị, giao cho Việt Minh để thành lập chính phủ nhằm tránh nội chiến có thể xảy ra.
Cuối bức thư ký tên 5 người, gồm: Nguyễn Xiển, Nguyễn Đình Thu, Nguyễn Văn Huyên, Ngụy Như Kon Tum, Hồ Hữu Tường. Tiếc rằng, hiện chưa thể tìm thấy bất kỳ thông tin nào về Nguyễn Đình Thu. 4 học giả còn lại đều là 4 cái tên trong danh sách Hội đồng tư vấn của chính phủ Trần Trọng Kim. GS, TS Phạm Hồng Tung, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định, các học giả này đều đứng ở vị trí trung lập với Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Minh. GS Nguyễn Xiển từng nêu: “Nguyễn Văn Huyên là người Bắc, Hồ Hữu Tường quê trong Nam, Ngụy Như Kon Tum và tôi ở Trung Kỳ”. 4 người chung một tiếng nói đại diện cho nguyện vọng của đại bộ phận trí thức ở 3 miền đất nước.
Về phía Vua Bảo Đại, GS Tung cho rằng, không chỉ vì bức điện ấy, quyết định nhường lại giang sơn cho nhân dân vốn xuất phát từ quá trình chuyển biến nhận thức cá nhân của vị vua này. Thường trực trong Bảo Đại vào thời điểm ấy là nỗi sợ bị phe Đồng minh kết tội và trừng phạt như những phần tử thân phát-xít khác. Bởi phe phát-xít thất bại nặng nề. Kéo theo đó là nội các Trần Trọng Kim - chỗ dựa của Bảo Đại đã rệu rã trong khoảng thời gian Mỹ ném quả bom nguyên tử xuống 2 thành phố ở Nhật Bản.
Bởi vậy, trong những ngày cuối cùng lưu nhiệm trước khi có một chính phủ mới, Vua Bảo Đại đã nghiêng mình về phía người dân khi viết thư gửi tới các thủ lĩnh phe Đồng minh. Trên danh nghĩa người đứng đầu quốc gia, những bức thư được gửi đi như động thái thể hiện lập trường bảo vệ chủ quyền, nền độc lập của Việt Nam. Ngài nói với Tổng thống Mỹ Truman rằng: “[…] các nước Đông Dương đã tuyên bố độc lập và quả quyết giữ vững nền độc lập ấy”. Giọng điệu trở nên cứng rắn hơn qua thông điệp gửi Đại tướng De Gaulle, đại diện cho Chính phủ lâm thời Pháp: “[…] các ngài cố lấy lại được quyền cai trị xứ này (tức Việt Nam) thì quyền đó cũng không ai phục tùng nữa”.

Niềm tin đặt vào “ngôi sao vàng năm cánh” Việt Minh
Những nhân vật vốn xuất hiện trong hội đồng tư vấn của Chính phủ Trần Trọng Kim lại cùng “tụ nghĩa” ngọn cờ Việt Minh, trước tiên phải nhắc đến những thất bại của chính phủ đó. Thành lập dưới sự hậu thuẫn của quân Nhật sau khi Pháp bị “hất cẳng”, nội các Trần Trọng Kim trong thời gian đầu đã đấu tranh với quân Nhật, thu hồi lại những thành phố nhượng địa như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, các công sở tại Hà Nội, trong đó có Đại học Đông Dương. Nỗ lực càng được ghi nhận khi giành lại được Nam Kỳ, đặc biệt trong bối cảnh quân Nhật dời tổng hành dinh khu vực Đông Nam Á về Sài Gòn.
Dẫu vậy, theo phân tích của GS Tung, chính phủ ấy không còn đáp ứng được mong mỏi của số đông quần chúng nhân dân, khi thất bại trong cam kết thanh trừng tham quan, xây dựng thể chế mới. Tệ hơn, nạn đói đã giáng xuống dân chúng nỗi thất vọng to lớn, khi thóc gạo từ Nam Kỳ không thể vận chuyển ra cứu đói cho dân Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Nhóm các trí thức tiến bộ cũng từ đó ngày càng giữ thái độ lạnh nhạt với Chính phủ Trần Trọng Kim, mà ngả dần về phe Cách mạng.
TỔNG HỘI SINH VIÊN VIỆT NAM, NƠI HUN ĐÚC TINH THẦN YÊU NƯỚC TRONG GIỚI SINH VIÊN
Cùng với các tổ chức ủng hộ Việt Minh, theo GS, TS Phạm Hồng Tung, Tổng hội Sinh viên Việt Nam trở thành cái nôi của các phong trào văn hóa - chính trị. Tổ chức này tập hợp được lực lượng thanh niên ở các xứ thuộc Đông Dương, đặc biệt là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Điểm chung ở họ là đều thức tỉnh tinh thần yêu nước, sục sôi ý chí cống hiến cho quê hương, để xứng với vị thế là những người có trình độ học vấn, mang sứ mệnh tiên phong dẫn dắt đồng bào, dân tộc. Thông qua các hoạt động sáng tác nhạc, viết, diễn kịch, cắm trại, tổ chức đã lan tỏa các hành động tích cực tới thanh niên nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Sự kết nối giữa Mặt trận Việt Minh với Tổng hội Sinh viên Việt Nam được giải thích rằng, bấy giờ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương xây dựng An toàn khu ở vùng ven Hà Nội, tương ứng với khu vực Đông Anh - Tây Hồ ngày nay. Sau đó, vận động giới thanh niên, sinh viên, mà đích đến là các trí thức yêu nước ở Hà Nội. Khi đã “bắt mối” với sự lãnh đạo của Đảng, Tổng hội Sinh viên bắt đầu “Việt Minh hóa” với việc Dương Đức Hiền, cựu sinh viên Luật của Đại học Đông Dương trở thành chủ tịch tổ chức này. Sau này, chính Dương Đức Hiền cũng có tên trong danh sách Ủy viên Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, thành lập sau Quốc dân Đại hội.
Trong buổi họp ngày 21/8, lãnh đạo Tổng hội Sinh viên Việt Nam đề nghị chính phủ phải được thành lập trên cơ sở đồng lòng, hợp nhất của cả 3 kỳ. Nhanh chóng lập chính quyền, theo PGS, TS Nguyễn Văn Huy, nguyên Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, con trai GS Nguyễn Văn Huyên, không chỉ để tiếp nhận ấn, kiếm từ chế độ phong kiến. Hơn nữa, còn là có ý nghĩa đại diện cho nhân dân một nước độc lập, tham gia vào hoạt động đối ngoại với các nước Đồng minh sẽ tới Việt Nam trong thời gian sớm.
Bức điện ấy, theo GS Phạm Hồng Tung, tuy không đóng vai trò then chốt dẫn đến quyết định từ bỏ ngai vàng của Vua Bảo Đại, mà chỉ như giọt nước tràn ly. Chính GS Nguyễn Xiển từng khiêm tốn bày tỏ: “Cử chỉ của chúng tôi chỉ là góp thêm một tác động nhỏ về chính trị tinh thần vào một cao trào đã lớn mạnh ở một tình thế đã chín muồi”. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sự tiếp sức của bức điện ấy trong công cuộc chuyển giao từ chế độ quân chủ sang chế độ cộng hòa. Đồng thời, góp phần khẳng định vị thế, sức ảnh hưởng của Mặt trận Việt Minh đối với giới trí thức và rộng hơn là đông đảo nhân dân.