Nỗ lực ngăn chặn xu hướng gia tăng nhanh của dịch HIV
Việc mở rộng điều trị PrEP trên toàn quốc là một trong những ưu tiên hàng đầu, hướng đến mục tiêu đến năm 2025 có 70% người có hành vi nguy cơ cao ở Việt Nam (tương đương khoảng 72.000 người) sử dụng PrEP, và tiến tới mục tiêu quốc gia chấm dứt dịch AIDS vào năm 2030.
Trong giai đoạn 2020-2024, cả nước đã có 111.159 người sử dụng PrEP ít nhất một lần, và tỷ lệ duy trì điều trị từ 3 tháng trở lên đạt hơn 70%. WHO đã đánh giá Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu trong việc áp dụng các khuyến cáo mới vào chương trình HIV quốc gia.
Tính đến tháng 6/2024, trên toàn quốc có 181.558 người nhiễm HIV đang được điều trị bằng thuốc kháng virus (ARV), trong đó có 2.466 trẻ em dưới 15 tuổi, tại hơn 500 cơ sở y tế ở 63 tỉnh, thành phố.
Chương trình điều trị ARV tại Việt Nam đã nhận được đánh giá cao từ cộng đồng quốc tế: Tỷ lệ người bệnh HIV có kết quả xét nghiệm tải lượng HIV (TLHIV) dưới ngưỡng ức chế (< 1000 cp/ml) đạt trên 97%; Tỷ lệ người bệnh duy trì điều trị ARV đạt trên 95%; Trên 95% bệnh nhân được điều trị dự phòng lao tiềm ẩn và đồng nhiễm HIV/Lao.
Tất cả người bệnh đang điều trị ARV đều được sàng lọc viêm gan C, và những người nhiễm virus viêm gan C được điều trị với tỷ lệ khỏi bệnh đạt trên 96% (với thuốc điều trị do Dự án Quỹ Toàn cầu hỗ trợ).
Gần đây, các cơ sở điều trị đã bắt đầu triển khai sàng lọc, quản lý và điều trị các bệnh không lây nhiễm như cao huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid máu, đái tháo đường, sức khỏe tâm thần.
![]() |
Em bé chào đời khỏe mạnh không mang virus dù mẹ nhiễm HIV. |
Công tác quản lý và điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con cũng được tăng cường, bao gồm xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai để phát hiện và điều trị ARV kịp thời, giúp trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV được điều trị dự phòng và tư vấn chăm sóc. Tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con hiện duy trì ở mức rất thấp, dưới 1,9%.
Ngành y tế đã cung cấp các dịch vụ chăm sóc và điều trị cho trẻ em và vị thành niên nhiễm HIV, bao gồm tư vấn công khai tình trạng nhiễm HIV và hướng dẫn sức khỏe sinh sản, an toàn tình dục tại các cơ sở điều trị.
Chương trình điều trị HIV đã đạt được nhiều kết quả tích cực và phần lớn các dịch vụ khám chữa bệnh cùng thuốc ARV được BHYT chi trả. Tuy nhiên, ở nhiều tỉnh, người bệnh HIV gặp khó khăn trong việc tiếp cận thuốc ARV, đặc biệt là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, gây khó khăn cho việc duy trì điều trị.
Độ bao phủ của xét nghiệm tải lượng HIV còn hạn chế, mỗi năm chỉ đạt dưới 80%. Nhiều tỉnh, thành phố chưa có điều kiện thực hiện xét nghiệm này tại chỗ và phải ký hợp đồng với các đơn vị đủ điều kiện xét nghiệm.
Quá trình mua sắm và cung ứng thuốc ARV gặp nhiều khó khăn, dẫn đến tình trạng thiếu thuốc trong một số thời điểm.
Việc cung cấp gói dịch vụ toàn diện (sàng lọc, quản lý điều trị các bệnh không lây nhiễm, chăm sóc sức khỏe tâm thần) cho người nhiễm HIV tại các cơ sở y tế còn hạn chế, do liên quan đến yêu cầu về chứng chỉ hành nghề của cán bộ y tế.
Tăng nguồn lực tài chính trong nước, huy động nguồn lực tư nhân
Trong bối cảnh các nguồn tài trợ quốc tế đang giảm dần, bên cạnh tiếp tục vận động, huy động các nguồn tài chính quốc tế, Bộ Y tế tiếp tục huy động các nguồn lực tài chính trong nước quan trọng bao gồm ngân sách địa phương, nguồn quỹ BHYT, ngân sách Trung ương, thu phí dịch vụ và huy động khu vực tư nhân và các nguồn xã hội hóa. Đến nay các nguồn tài chính trong nước đã đạt khoảng 45%.
![]() |
Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS Phan Thị Thu Hương. |
Để tiếp tục tăng tỷ trọng các nguồn tài chính trong nước, Bộ Y tế tiếp tục tập trung huy động ngân sách địa phương. Bộ Y tế đang khẩn trương hoàn thiện các văn bản hướng dẫn về xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật và giá dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS làm hành lang pháp lý cho việc cho việc lập dự toán kinh phí từ nguồn NSĐP. Tiếp tục đôn đốc và hỗ trợ các địa phương chưa phê duyệt kế hoạch đảm bảo tài chính chấm dứt dịch bệnh AIDS đến năm 2030 tiếp tục trình hoàn thiện và phê duyệt.
Theo Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS Phan Thị Thu Hương, trong thời gian vừa qua Việt Nam đã rất thành công trong việc chuyển giao chương trình điều trị ARV sang nguồn quỹ BHYT đến nay Quỹ BHYT đã chi trả tới 90% thuốc đàm phán giá. Tỷ lệ bệnh nhân điều trị ARV có thẻ BHYT đạt tới 96% tuy nhiên đến nay vẫn còn 5-7% bệnh nhân đang điều trị từ khu vực tư nhân do không muốn lộ danh tính.
Do đó, Bộ Y tế sẽ tiếp tục phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam để hoàn thiện hành lang pháp lý cho việc tăng độ bao phủ BHYT và bảo đảm quỹ BHYT chi trả đầy đủ cho người nhiễm HIV theo quyền lợi của người có thẻ BHYT.
Bộ Y tế tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý và cơ chế khuyến khích cho việc tăng cường khu vực tư nhân tham gia đầu tư cung cấp dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS, nhằm tăng tỷ trọng đầu tư của khu vực tư nhân lên tới 10% năm 2025 và 15% năm 2030. Tiếp tục hoàn thiện khung giá dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS theo định mức kinh tế kỹ thuật cập nhật để thu phí một số dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS.