Nỗi lo thiếu điện cận kề
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) vừa báo cáo Thủ tướng Chính phủ khó khăn trong cung ứng điện toàn quốc giai đoạn 2022-2025. Theo đó, EVN tính toán cân đối cung cầu điện toàn quốc theo hai kịch bản phụ tải.
Kịch bản phụ tải cơ sở xây dựng là bảo đảm điện cho phát triển kinh tế với tăng trưởng GDP từ 6,5-7% và dự báo nhu cầu điện tăng trưởng gần 9%/năm. Còn kịch bản phụ tải cao để chuẩn bị sẵn sàng cho kịch bản nền kinh tế hồi phục và tăng trưởng mạnh. Trong đó, dự báo tăng trưởng nhu cầu điện năm 2022 là 11,5% và các năm 2023-2025 bình quân 10,36%/năm.
Tuy nhiên, EVN đánh giá việc bảo đảm cung ứng điện thời gian tới sẽ gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt đối với khu vực miền bắc, nơi nhu cầu điện chiếm gần 50% toàn quốc và dự báo tăng trưởng cao hơn bình quân cả nước. Trong khi đó, các nguồn điện mới dự kiến hoàn thành hằng năm trong giai đoạn 2022-2025 luôn thấp hơn so tăng trưởng phụ tải.
Trong hai đợt nắng nóng tháng 5 và tháng 6/2021, phụ tải đỉnh của hệ thống đã đạt 42,5 GW, điện miền bắc thiếu nguồn do nhiều dự án nguồn điện lớn đã không đưa vào vận hành theo Quy hoạch điện VII (điều chỉnh) và phải yêu cầu bên mua điện đáp ứng phát nguồn dự phòng hoặc cắt điện cục bộ. Các nhà máy nhiệt điện ở miền bắc đã chạy hết công suất, nhưng vẫn không đủ vì trời nóng kéo dài, nước không làm mát kịp, làm giảm một phần công suất. Do đó, việc bảo đảm cung cấp điện ngày càng khó khăn và có thể xảy ra tình trạng thiếu hụt công suất đỉnh vào các tháng 5, 6, 7 năm nay. Trong khi, việc hỗ trợ cấp điện từ miền trung, miền nam ra miền bắc bị giới hạn bởi năng lực truyền tải 500 kV Bắc-Trung.
Theo EVN, hiện việc thiếu than cho sản xuất điện đã rất nan giải bởi sản lượng cung ứng than hụt rất lớn so kế hoạch. Cụ thể, trong quý I/2022, tổng khối lượng than đã được cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) của EVN là 4,49 triệu tấn trên tổng số 5,85 triệu tấn theo hợp đồng đã ký (tương ứng tỷ lệ 76,76%). Do thiếu hụt 1,36 triệu tấn than nên nhiều tổ máy nhiệt điện than trong hệ thống đã phải dừng và giảm phát.
Đơn cử, các NMNĐ Nghi Sơn 1, Vũng Áng 1, Vĩnh Tân 2, Duyên Hải 1, hiện chỉ đủ than vận hành một tổ máy ở mức 60-70% công suất; NMNĐ Hải Phòng chỉ đủ than vận hành cho một trong bốn tổ máy. Ước tính, toàn hệ thống điện quốc gia thiếu hụt tới hơn 3.000 MW nhiệt điện than do thiếu than cho sản xuất điện.
“Tại anh, tại ả?”
Về vấn đề thiếu than, EVN kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các nhà cung cấp than lớn Tập đoàn công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tổng công ty Đông Bắc tăng cường cung cấp than trong nước cho các đơn vị phát điện; không tăng giá than trong nước bán cho hoạt động sản xuất điện cũng như giá than trong nước tính toán trong phương án phối trộn than. Công khai minh bạch giá than nhập khẩu để có giá than pha trộn phù hợp, không tăng quá cao. EVN cũng kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành kiểm soát giá than trong điều kiện giá bán lẻ điện chưa được điều chỉnh kịp thời...
Tuy nhiên, để bảo đảm việc cung ứng than, TKV lại kiến nghị Chính phủ xem xét tăng giá bán than trong nước, đặc biệt giá bán than cho các NMNĐ. Bởi sản lượng than bán cho các hộ điện chiếm hơn 80% sản lượng than tiêu thụ của TKV nên việc tăng giá để bảo đảm hiệu quả sản xuất, kinh doanh than của TKV trong điều kiện giá dầu, giá nguyên vật liệu tăng cao và chi phí phòng, chống dịch làm tăng giá thành sản xuất than.
Theo TKV, ngoài nguyên nhân khách quan của thị trường thế giới, thì việc chậm giao than còn do chính bản thân các NMNĐ đến ngày 2/3/2022, EVN mới chấp thuận cơ chế giá than pha trộn TKV kê khai theo Luật giá, dẫn tới TKV phải đẩy lùi và bỏ lỡ nhiều cơ hội nhập khẩu đủ than về pha trộn theo kế hoạch.
“Hiện nay, sau khi EVN chấp thuận cơ chế giá thì việc tìm được nguồn nhập khẩu than là vô cùng khó khăn và không nhập được các loại than có chất lượng phù hợp để pha trộn. Kèm theo đó là giá than thế giới tăng đột biến. TKV đã triển khai mở bốn gói thầu quốc tế mua than nhập khẩu để pha trộn trong quý II/2022. Tuy nhiên, do giá than thế giới tăng vượt giá đề xuất, cộng thêm ảnh hưởng chiến sự giữa Nga và Ukraine làm khan hiếm nguồn cung dẫn tới khả năng không có đơn vị trúng thầu”, TKV thông tin.
Còn về việc sản lượng than giao cho các NMNĐ quý I/2022 chưa cao, TKV khẳng định “do các nhà máy chậm xác nhận ký hợp đồng mua bán than năm 2022, đa số đến ngày 5, 6/1/2022 mới xác nhận ký hợp đồng và gửi qua thư điện tử cho TKV, nên mất khoảng 7-10 ngày đầu tháng 1/2022 không có căn cứ pháp lý để giao than”.
Mặt khác, theo TKV, có một số NMNĐ than (kể cả trong EVN và ngoài EVN) đã ký hợp đồng mua bán than dài hạn, trung hạn với TKV, nhưng lại thường xuyên không bảo đảm thực hiện theo cam kết. Như là, khi nguồn bên ngoài giá thấp hay điều kiện thời tiết thuận lợi, các nhà máy điện tăng cường lấy than bên ngoài, không tiêu thụ than của TKV (lấy khối lượng ít hơn so hợp đồng đã ký) dẫn đến tồn kho cao, TKV phải giảm sản lượng sản xuất; ngược lại, khi giá cao hay thời tiết không thuận lợi (mưa bão, lũ lụt...) thì lại quay về lấy than của TKV với khối lượng cao, đặc biệt trong điều kiện hiện nay giá than thế giới tăng đạt mức kỷ lục, gấp hơn hai lần so cùng kỳ năm ngoái.
Thực tế này dẫn đến việc, nếu TKV không đưa vào kế hoạch sản xuất, nhập khẩu thì sẽ không đủ nguồn than cung cấp cho các nhà máy điện, do đó dẫn đến kế hoạch sản xuất, kinh doanh than của TKV không ổn định, không bảo đảm nguồn cung ổn định, lâu dài. Do đó, TKV đề nghị Bộ Công thương có ý kiến chỉ đạo các NMNĐ tôn trọng và thực hiện nghiêm túc việc nhận than theo hợp đồng dài hạn đã ký kết với TKV. Bên cạnh đó, phải đăng ký nhu cầu than hằng năm với khối lượng không chênh lệch quá khối lượng bình quân theo hợp đồng dài hạn và thực hiện tiếp nhận đúng khối lượng than đã đăng ký để TKV có kế hoạch đầu tư các dự án và chủ động sản xuất than cung cấp cho sản xuất điện bền vững.
Giải pháp nào gỡ khó?
Trước thực tế trên, Bộ Công thương đã tổ chức cuộc họp khẩn vào ngày 1/4 để làm việc với ba tập đoàn lớn gồm EVN, TKV và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN). Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã yêu cầu EVN thực hiện ngay biện pháp huy động bổ sung các nguồn điện khác bù cho những nhà máy nhiệt điện than phải dừng tổ máy; trong đó nguồn năng lượng tái tạo khoảng 1.000 MW, nguồn thủy điện khoảng 300 MW, nguồn điện khí khoảng 1.200 MW, nguồn nhiệt điện than khoảng 1.200 MW. “Như vậy, có thể khẳng định năm 2022 không thiếu điện để phục vụ sản xuất và sinh hoạt theo Kế hoạch huy động và vận hành hệ thống điện quốc gia đã được Bộ Công thương phê duyệt”, Bộ trưởng Diên nói và giao các tập đoàn phải nâng cao năng lực sản xuất nhiên liệu sơ cấp trong nước; tăng cường mua bán than, khí với các đối tác truyền thống và các đối tác mới.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cũng đã đề nghị Australia cân đối sản lượng than trong nước để cung cấp cho Việt Nam, trong buổi làm việc với đại sứ nước này vào ngày 1/4. Dự kiến Việt Nam có thể nhập khoảng 5 triệu tấn than từ Australia. Ngoài ra, Bộ Công thương sẽ xúc tiến tìm thêm nguồn nhập khẩu than cho điện từ Nam Phi.
Cho rằng miền bắc đứng trước nguy cơ thiếu điện vào một số thời điểm, đặc biệt là cao điểm nắng nóng trong khi các nhà máy nhiệt điện thiếu than, EVN đề xuất sớm có cơ chế phát triển nhanh các nguồn năng lượng tái tạo ở miền bắc. Trong đó, đến năm 2025 cần đưa vào vận hành thêm khoảng 5.500 MW các nguồn điện tái tạo, gồm 4.000 MW điện gió và khoảng 1.500 MW điện mặt trời kèm theo hệ thống lưu trữ phù hợp để đáp ứng nhu cầu công suất trong các giờ cao điểm tối. Đồng thời, EVN cũng đề xuất cơ chế khuyến khích phát triển các nguồn điện mặt trời mái nhà với mục đích tự tiêu thụ cho nhu cầu phụ tải tại chỗ, không bán lên lưới. Riêng về điện gió ngoài khơi, EVN cũng kiến nghị Chính phủ và các bộ, ngành xem xét bổ sung quy hoạch và chấp thuận chủ trương cho phép EVN triển khai đầu tư điện gió ngoài khơi khu vực Bắc Bộ để tăng cường nguồn cấp điện khu vực phía bắc và kết hợp bảo đảm an ninh quốc gia.
Về lâu dài, theo TKV, cần có cơ chế để tiếp tục đẩy mạnh khoan thăm dò, đánh giá trữ lượng than nhằm chuẩn bị cơ sở tài nguyên tin cậy cho sự phát triển ổn định, lâu dài của ngành. Thực hiện nghiêm túc, đúng tiến độ đầu tư các dự án khai thác than theo hướng tập trung phát triển các mỏ than hầm lò sản lượng lớn theo tiêu chí “Mỏ xanh, mỏ hiện đại, mỏ sản lượng cao”, liên thông các mỏ lộ thiên để mở rộng không gian nhằm tăng năng suất và giảm bớt chi phí chung. Chuẩn hóa, nâng cấp các kho cảng dịch vụ logistics phục vụ việc xuất nhập khẩu, pha trộn than.
Tại cuộc họp về tình hình cung ứng điện, cấp than, khí cho sản xuất điện, bảo đảm cân đối lớn về năng lượng trong năm 2022 và các năm tiếp theo diễn ra ngày 3/4, Thủ tướng giao các bộ, ngành, cơ quan xử lý theo thẩm quyền, nếu vượt thẩm quyền thì báo cáo Phó Thủ tướng Lê Văn Thành, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển điện lực trực tiếp chỉ đạo, xử lý. Thủ tướng yêu cầu Bộ Công thương chủ động thúc đẩy phong trào tiết kiệm điện mạnh mẽ, hiệu quả hơn, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi năng lượng sạch, khai thác tối đa công suất các nguồn điện hiện có.